📗

302. Lời vàng lấp lánh

image

Lời vàng lấp lánh

🪷 Tìm ngọc trong biển

Văn tập: 302 Xuất bản: 11/2024 Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam

Mục lục

Lời mở đầu

Tôi nhớ có câu chuyện như thế này: Vào thời Phật Đà, có một vị lương y nổi tiếng, đó là ngài Kỳ Bà ở nước Ma-kiệt-đà. Ngài thường xuyên chữa bệnh cho các đệ tử của Đức Phật. Ngài thậm chí đã dùng phương pháp gây mê khéo léo để chữa khỏi khối u não cho nhà vua, đó là một ca phẫu thuật thời cổ đại. Kỳ Bà của Ấn Độ. Hoa Đà của Trung Quốc. Hai người ngang tài ngang sức, nghe nói Hoa Đà cũng từng phẫu thuật cho Quan Vân Trường như thế.

Câu chuyện như thế này: Khi Kỳ Bà học y thuật, thầy bảo tất cả học trò đi tìm "cỏ không có dược tính" mang về. Các đệ tử lên núi tìm kiếm. Hầu như mỗi đệ tử đều mang về một cọng cỏ "không có dược tính". Thầy lặng im không nói.

Sau đó Kỳ Bà trở về, tay không mang gì cả. Thầy hỏi: "Sao con lại trở về tay không?" Kỳ Bà đáp: "Con đã tìm khắp các loại cỏ, mỗi cọng cỏ đều có dược tính." Thầy gật đầu: "Lành thay! Đúng vậy, con mới chính là người đệ tử chân chính!" Thế là, Kỳ Bà trở thành danh y đương thời.

🌟

Tôi (Sư Tôn Lư) lấy câu chuyện này làm dẫn nhập, tôi đang tìm kiếm những viên ngọc quý trong biển cả, những lời vàng lấp lánh. Tôi chợt nhận ra, những chữ hay câu hết sức bình thường đều là những lời vàng lấp lánh, thực ra chỉ cần cúi xuống là nhặt được. Những câu này đều là: Châu báu. Vàng ròng. Chân lý. Châm ngôn. Bí quyết. .............

Những câu nói bình thường này, sau khi thấu hiểu triệt để, sẽ sinh ra quan điểm siêu việt. Người thường dễ bỏ qua những câu này, nhưng khi nghiền ngẫm kĩ càng, bạn sẽ phải bật dậy vì quá kinh ngạc. Hóa ra ngọc quý trong biển cả ở khắp mọi nơi.

Ngày 5 tháng 5 năm 2024, tôi làm pháp hội Hộ Ma hỏa cúng tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Diêu Trì Kim Mẫu đi vào tâm tôi, tôi ngồi trên pháp tọa, bỗng nhiên nước mắt tuôn rơi, chảy trong khoảng hai mươi phút. Người hỏi: "Sư Tôn Lư buồn điều chi?" Tôi đáp: "Không phải tôi khóc, mà là Diêu Trì Kim Mẫu khóc." Người hỏi: "Khóc vì sao?" Tôi đáp: "Từ bi với chúng sinh." Tôi nói với mọi người: "Diêu Trì Kim Mẫu dạy tôi, hãy nghĩ cho người khác, lấy lòng từ bi đối đãi với chúng sinh." Câu nói này rất bình thường, nhưng trong cái bình thường có điều phi thường. Hiểu chăng? Đây chính là lời vàng!

Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn

Sheng-Yen Lu

17102 NE 40th Ct., Redmond WA 98052 U.S.A. Tháng 5 năm 2024

01. Nói về những chuyện lớn trong thiên hạ

Tôi là người rất thích đọc sách, không có ngày nào là không đọc. Nói đến đọc sách, không phải là sách giáo khoa ở trường, mà là những sách tổng hợp thông thường. Ví dụ: Thượng Cổ Thần Thoại Diễn Nghĩ. Đông Chu Liệt Quốc Chí. Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tây Du Ký, Phong Thần Bảng, Thủy Hử Truyện, Hồng Lâu Mộng, Chinh Đông, Chinh Tây, Bình Nam............

Tiểu thuyết võ hiệp thời kỳ đầu, như "Thanh Bình Kiếm", "La Công Kiếm" của Mao Liêu Sinh. Tác phẩm của Bình Giang Bất Tiếu Sinh. Còn về tác phẩm của Cổ Long, Kim Dung thì đã đọc hết. Ngoài ra còn có tác phẩm của Alexandre Dumas cha và Alexandre Dumas con. Lịch sử thời Chiến Quốc Nhật Bản về Tokugawa Ieyasu, Toyotomi Hideyoshi, Oda Nobunaga. Tác phẩm của Kawabata Yasunari. Và cả "Thục Sơn Kiếm Hiệp Truyện". Tác phẩm "Núi Linh" đoạt giải Nobel. Tôi đã đọc hết toàn bộ sách của hiệu sách cho thuê Đại Bằng! Ha! Ha! Tóm lại, nói chung là cầm được sách là đọc. Trong ấn tượng, sách diễn nghĩa có một câu làm tôi chú ý, câu đó là: "Nói về đại thế thiên hạ, hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp".

Tôi suy nghĩ một lúc, đây quả là lời vàng. Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử: Sự phân chia và thống nhất của Đông Đức, Tây Đức. Sự phân chia và thống nhất của Bắc Việt, Nam Việt. Sự phân chia và thống nhất của Nam Hàn, Bắc Hàn. Sự phân chia và thống nhất của Trung Quốc, Đài Loan. Và hiện nay là Nga, Ukraine. Israel, Palestine. Tất cả đều là chu kỳ chia rẽ rồi hợp nhất, hợp nhất rồi chia rẽ, cứ thế luân hồi mãi. Ngoại Mông, Nội Mông. Malaysia, Singapore. .............

Còn có Ấn Độ, Pakistan. Sự phân chia và hợp nhất trong lịch sử, sự phân chia và hợp nhất về địa lý, sự phân chia và hợp nhất về văn hóa, sự phân chia và hợp nhất về chủng tộc, sự phân chia và hợp nhất về tôn giáo. Điều này chính là minh chứng cho câu nói: Nói về đại thế thiên hạ. Hợp lâu ắt phân. Phân lâu ắt hợp.

🌟

Tôi biết, tất cả những sự phân chia và hợp nhất này đều là: Chứng bệnh tham dục phiền não của chúng sinh, chứng bệnh sân hận phiền não của chúng sinh, chứng bệnh si mê phiền não của chúng sinh. Tất cả những điều này đều là vô minh. Loại vô minh này từ xưa đến nay chưa từng gián đoạn. Ví dụ: Đế quốc Mông Cổ vĩ đại, trải dài từ Châu Á, Châu Phi, Châu Âu, Trung Đông............ Giờ đây còn đâu? Đế quốc La Mã. Giờ đây còn đâu? Đế quốc Assyria. Giờ đây còn đâu? ............

Hideki Tojo (rối loạn nhân cách bạo lực) Mussolini (rối loạn nhân cách bạo lực) Hitler (rối loạn nhân cách bạo lực) Cái gọi là chiến tranh chính là vô minh tập thể của nhân loại.

Khi chúng ta nhận thức được căn bệnh vô minh, phải hiểu rõ nguồn gốc của nó, phương pháp đối trị, loại bỏ tận gốc, không bao giờ tái phát. Hiểu được tất cả những điều này chính là: Phiền não. Chấp trước. Chúng ta đã hiểu rõ, "nói về đại thế thiên hạ, hợp lâu ắt phân, phân lâu ắt hợp." Tất cả, hãy mỉm cười thôi!

02. Ai đã khai ngộ?

Một người chạy đến nói với tôi: "Tôi thật sự đã khai ngộ!" Tôi hỏi: "Khai ngộ điều gì?" Anh ta đáp: "Vạn pháp đều không." Về sau, anh ta vào bệnh viện tâm thần. Mỗi ngày đều hô "khai ngộ".

Lại có một người khác. "Tôi thật sự đã khai ngộ!" Tôi hỏi: "Khai ngộ cái gì?" Anh ta đáp: "Mọi việc trên đời đều không liên quan." Về sau anh ta trở thành người vô gia cư, sống vô công rồi nghề.

Lại có một người. "Tôi thật sự đã khai ngộ!" Tôi hỏi: "Khai ngộ điều gì?" Anh ta đáp: "Thân thể của tôi hoàn toàn là giả." (huyễn hóa) Sau đó anh ta đã tự sát! ............. Những người khai ngộ kiểu này thật sự là có.

Hiện nay, khi nghe ai đó nói họ đã khai ngộ, tôi rất quan tâm và hy vọng họ hiểu được: Trí tuệ phương tiện. Quyền thật như nhau. Không sắc như nhau. Có không như nhau. Phật ma như nhau. Nếu không có công phu thực sự, chỉ là học vẹt, mỗi ngày hô to: "Không đến không đi không việc gì!" hoặc "Hư không vỡ nát" hoặc "Ai là người kéo xác chết?" hoặc "Đập vỡ thùng sơn đen!"............ Những điều đó chỉ là khẩu hiệu.

Tôi (Sư Tôn Lu) cũng từng nói: "Không can thiệp!" (Nghĩa là đã loại bỏ các chướng ngại của Pháp tính, không can thiệp vào mọi che chướng, trực kiến Pháp tính.) Tôi cũng biểu diễn sự khai ngộ qua cử chỉ: "Gà vàng đứng một chân". (Ý chỉ pháp môn bất nhị, tuyệt đối, chỉ là một, không phải hai.)

Nhưng, Tôi cũng trân quý một câu vàng: Tự tính mê chính là chúng sinh. Tự tính giác chính là Phật. Từ bi chính là Quan Âm. Hỷ xả chính là Thế Chí. Năng tịnh chính là Thích Ca. Bình trực chính là Di Đà.

Chính những lời bình dị này đã đánh động tâm can tôi. Cho dù trên phương diện "lý" bạn đã khai ngộ, nhưng trên phương diện "sự", bạn phải từ bi, hỷ xả, thanh tịnh và ngay thẳng. Chỉ khi "lý, sự" hợp nhất, mới là "chân ngộ". Lý là "không". Sự là "có". Là một không phải hai. Đó mới là tinh túy của Phật pháp. Điều tối kỵ nhất của chúng ta là chỉ có cái "không" trên lý, rất dễ rơi vào con đường sai lạc của "ngoan không" [cố chấp vào cái không]. Phủ nhận nhân quả. Luân hồi cũng không. Tịnh thổ không. Niết bàn không. Cuối cùng là "không không"!

03. Phải nhìn mặt đặt tên

Nhiều người nói: "Không nên đánh giá người qua diện mạo!" Nhưng, Tôi nói: "Phải nhìn mặt đặt tên!" (Đây cũng là lời vàng của tôi, là lời vàng chân thật không sai.)

Tôi (Lư Sư Tôn) giỏi quan sát khí sắc, việc quan sát khí sắc này chính là đánh giá người qua diện mạo. Tôi nhìn vào khuôn mặt một người, có thể thấy được cả cuộc đời của người đó. Lông mày — cung Huynh đệ. Mắt — cung Thông tuệ. Đuôi mắt — cung Đào hoa. Đầu mũi — cung Tài bảo. Tai — cung Trường thọ. Cằm — cung Nô bộc. Lưỡi — cung Sức khỏe. .............

Không chỉ là khuôn mặt, mà bao gồm cả thân thể, tứ chi đều có rất nhiều dấu hiệu. Tôi có thể nói như thế này: "Quá khứ, hiện tại và tương lai của mỗi người đều được ghi khắc trên thân thể của người đó, không có ngoại lệ." Quan trọng hơn nữa: Đó là "khí" tỏa ra từ con người này, "khí" là vô hình, chỉ người có huệ nhãn mới nhìn thấy được.

Phật Đà có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Nhưng, hai bên khác nhau, điểm khác biệt nằm ở "khí" khác nhau. Người có ngoại hình đẹp, chưa chắc đã là người thiện. Người có ngoại hình dữ tợn, chưa chắc đã là người ác. Lời này không sai, nhưng chúng ta - những người giỏi quan sát "khí" có thể phân biệt được. Đây là sự quan sát rất tinh tế, không phải chuyện đơn giản, nhưng vẫn có thể nhìn ra được.

Tôi thường nói: "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về diện mạo của mình, bởi vì đó hoàn toàn là do chính mình tạo ra." Phật có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đây là tướng mạo viên mãn nhất, được hình thành từ sự tương ứng giữa các đức hạnh bên trong với bên ngoài. Những đức hạnh này bao gồm: Trì giới. Bố thí. Tinh tấn. Vô phiền. Vô chấp. Toàn thân tỏa sáng hào quang, chiếu khắp mười pháp giới. Không chỉ tướng bên ngoài viên mãn, mà linh tính bên trong cũng viên mãn.

Còn về Chuyển Luân Thánh Vương, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp có được là do phúc báo. Có tướng bên ngoài mà không có tướng bên trong. Không có hào quang, chỉ có ánh sáng phúc báo mà thôi.

Tướng mạo của người tu hành là: Tướng "thản nhiên vô cầu", tướng này thể hiện không tham tiền của, không tham sắc dục, không tham danh vọng. Bậc tu hành có tướng "thản nhiên vô cầu" này được cả thần linh lẫn muôn loài sinh linh kính trọng, đó chính là bậc thánh. Tôi nhìn "quang khí": Ánh sáng trắng — là ánh sáng thanh tịnh. Ánh sáng đỏ — là ánh sáng bố thí. Ánh sáng xanh — là ánh sáng trì giới. Ánh sáng vàng — là ánh sáng phúc báo. Từ "quang khí", có thể phân biệt được các hạng người khác nhau, đây chính là "phân biệt trí". Tôi nói: "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về tướng mạo của mình. Nghiệp của bạn, đều hiện ra trên tướng mạo." (Sinh ra đã có tướng mạo xấu, là do nghiệp đời trước.)

04. Dùng gia trì để chữa bệnh

Ngày 13 tháng 1 năm 2024, tôi (Lư Sư Tôn) ngồi trên pháp tọa. Tôi tụng chú (chú lục đinh lục giáp). Sử dụng Cửu tự chân ngôn "Lâm, Binh, Đấu, Giả, Giai, Trận, Liệt, Tại, Tiền". Lòng bàn tay vận khí. Gia trì chúng sinh. (Phát trực tiếp.)

Lúc này, từ lòng bàn tay phóng ra hào quang vạn trượng, ánh sáng vàng rực rỡ, tràn ngập khắp trời đất. Bàn tay rung động không tự chủ, phát ra pháp lực, pháp lực như một tấm lưới, đan xen dọc ngang. Bàn tay nóng bừng, nóng như ánh sáng đỏ đang cháy, thông suốt trời đất, hồng quang vạn trượng, điềm lành nghìn nơi. Tôi lại vẽ bốn đường dọc năm đường ngang, ấn Cửu tự chân ngôn, ấn hướng về đại chúng. Vẽ một đường niệm một chữ, chín đường là chín chữ. Đó chính là Cửu tự chân ngôn.

Trong lòng tôi thầm cầu nguyện: "Tôi là Liên Sinh, dùng sức mạnh truyền thừa, sức mạnh Bổn tôn, sức mạnh Hộ pháp, ba sức mạnh hợp nhất gia trì, có bệnh trị bệnh, không bệnh tăng cường thể lực, cấp cấp như luật lệnh." Rồi phát ra: Âm thanh "Uân... uân... uân..." Tôi nói: "Sự gia trì này của tôi không bị giới hạn bởi thời gian và không gian, chúng sinh có duyên, trong buổi phát trực tiếp, quán tưởng mình được gia trì, có thể tạo ra kỳ tích." Lúc đó, mọi người ghi lại đoạn "phát trực tiếp" này, có thể nhận được gia trì mỗi lần xem. Quả nhiên, kỳ tích đã xuất hiện.

Thứ nhất: Liên Hoa Đạt Trí ở Malaysia kể: Ngày 9 tháng 5 năm 2022, tôi đã tiêm mũi vắc-xin phòng COVID-19 Pfizer thứ tư. (Xuất hiện vết ban đỏ nhỏ ở đùi trái.) Ngày 1 tháng 12 năm 2023, vết ban đỏ to bằng bàn tay. Ngày 13 tháng 1 năm 2024, Lư Sư Tôn gia trì qua mạng, nói rằng gia trì không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Mỗi ngày ba lần, tôi mở video gia trì, hướng vào vết ban đỏ. Ngày 18 tháng 2 năm 2024. Vết ban đỏ hai năm đã biến mất, da trở lại trắng mịn, mọi thứ bình thường. Điều này chứng minh pháp lực của Lư Sư Tôn vô cùng mạnh mẽ, Lư Sư Tôn tuyệt đối không nói dối. Thật sự hiệu nghiệm, tràn đầy niềm tin.

Thứ hai: Liên Hoa Tư Tư ở Canada kể: Tháng 2 năm 2024, đi khám sức khỏe, phát hiện ung thư vú giai đoạn hai. Nghe nói Lư Sư Tôn gia trì qua mạng. Mỗi ngày tôi mở video gia trì một lần. Nửa tháng sau, quay lại bệnh viện tái khám. Ung thư bỗng nhiên biến mất. Bác sĩ vô cùng ngạc nhiên. Tôi cảm thấy rất may mắn, thật tốt khi có được sự gia trì của Lư Sư Tôn. Ung thư đã biến mất rồi! Đặc biệt gửi thư cảm ơn.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) xin nói với mọi người. Những lá thư như thế này đến như bông tuyết bay, rất nhiều người có cảm ứng. Ở đây tôi chỉ liệt kê hai lá thư. Tôi, Lư Sư Tôn nói: "Người có tâm thành, Phật có cảm ứng." (lời vàng) "Tôi không có gì khác, tôi đã tương ứng với Bổn tôn, tôi có thể hợp nhất với Bổn tôn, tôi chính là Bổn tôn, những gì Bổn tôn làm được thì tôi cũng làm được." (lời vàng) Tôi có lực gia trì. Tôi có pháp lực Bổn tôn. Tôi có năng lực cầu nguyện. Tôi có lực Tam ma địa. Tôi có lực thiền định. Chỉ cần tinh thần thống nhất, nhất tâm bất loạn, sức mạnh sẽ được sinh ra.

Đôi khi, Chỉ cần vỗ lưng. Chỉ cần thổi một hơi. Chỉ cần nhìn bạn một cái. Chỉ cần xoa đầu. Bệnh tật sẽ tan biến không dấu vết. Tôi đã trở thành thiên y [bác sĩ cõi trời], trong lòng tôi chỉ mong muốn "giải trừ bệnh khổ cho thế nhân". Nhưng, Có một điều không thể không nói với mọi người, có những người nghiệp chướng sâu nặng, không sám hối, lại chồng chất thêm nghiệp. Những người này mắc bệnh nghiệp chướng. Cần phải học Phật pháp trước, tu pháp trừ nghiệp chướng, nếu không trừ được nghiệp nặng, muốn trừ bệnh khổ cũng rất khó.

Tôi xin nói thêm: Giáo lý của Phật Đà không thuần túy là vấn đề sức khỏe, không đơn thuần là trừ bệnh khổ, giáo nghĩa quan trọng nhất là thiền định, trí huệ, đạt được cảnh giới tối thượng của giải thoát. Khi con người già đi, sẽ thoái hóa. Tất cả đều sẽ suy tàn. Lúc này, liệu bạn đã đạt được chính giác giải thoát chưa?

05. Lư Âm nhìn thấy Phật Bồ Tát

Lư Âm, một tuổi rưỡi. Là con gái của Andy và Phật Thanh. Chính là cháu gái ngoại nhỏ của tôi. Khi sinh ra, tôi đặt tên là Lư Âm. Tên tiếng Anh là Elly. Cháu rất hoạt bát đáng yêu, đôi mắt to tròn, hay cười. Tất cả chúng tôi đều bị cháu mê hoặc. Lư Âm sinh ngày 18 tháng 8 năm 2022.

Một ngày nọ. Ngày 1 tháng 5 năm 2024, cháu đến chơi nhà ông bà ngoại, bỗng nhiên cháu nói: "Có rất nhiều, rất nhiều Phật Bồ Tát!" Cháu lại kêu to: "Nhiều lắm nhiều lắm Phật Bồ Tát!" Mọi người hỏi: "Ở đâu vậy?" Lư Âm nói: "Ở đó kìa!" Mọi người nhìn về phía đó, nơi ấy trống không, chẳng có gì cả. Khi Lư Âm sắp rời Nam Sơn Nhã Xá, cháu vẫy tay chào Phật Bồ Tát và nói: "Tạm biệt! Phật Bồ Tát."

🌟

Lư Âm đến Chân Phật Mật Uyển. Cháu nhìn thấy: "Quan Thế Âm Bồ Tát!" Mọi người hỏi: "Ở đâu vậy?" Lư Âm đáp: "Ở đó kìa." Mọi người vẫn không nhìn thấy gì! Lúc sắp về. Lư Âm nói với Quan Thế Âm Bồ Tát: "Tạm biệt!"

🌟

Lư Âm là con lai, rất xinh đẹp. Andy nói tiếng Anh với cháu. Phật Thanh dạy cháu tiếng Trung. Mới một tuổi rưỡi đã biết nói rất giỏi, cháu nói chuyện sớm hơn trẻ bình thường một năm. Lư Âm thấy Phật Bồ Tát là thật sao? Tôi nói: "Đúng vậy!" Lư Âm một tuổi rưỡi, nói gì biết nấy, cháu hoàn toàn không biết nói dối. Hơn nữa: nói dối cũng chẳng có ý nghĩa gì. Cháu có tâm hồn thuần khiết, không một chút nhiễm ô, chính cái tâm thuần nhất ấy khiến cháu nhìn thấy Phật Bồ Tát. (Nghe nói nhiều trẻ em đều có thể nhìn thấy những điều vô hình, bởi vì trẻ em thuần khiết, tâm thẳng, chưa bị ô nhiễm, nên có thể nhìn thấy.) Tôi nói: "Lư Âm nhìn thấy Phật Bồ Tát là chuyện bình thường!" Không có gì lạ! Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: "Tinh thần thống nhất, không việc gì không thành!" Lão Tử nói: "Người giữ được nhất tâm, vạn sự thành tựu!" Phật A Di Đà dạy: "Nhất tâm bất loạn niệm Phật, ắt được về Tây phương tịnh thổ." Hành giả muốn đắc thiên nhãn, chỉ cần nhất tâm. Tôi nói: "Hành giả tu tập tất cả pháp, thông đạt tất cả nghĩa, cuối cùng đạt được nhất tâm. Đó chính là thành tựu pháp môn bất nhị." (lời vàng)

06. Nhân quả luân hồi và vô thường

Có người nói: "Tôi không tin luân hồi?" Tôi nói: "Xuân hạ thu đông chính là luân hồi." Người ấy nói: "Tôi không tin nhân quả?" Tôi nói: "Trồng đậu được đậu, trồng dưa được dưa, chính là nhân quả." Người ấy lại nói: "Tôi không tin vô thường?" Tôi nói: "Hỷ nộ ai lạc chính là vô thường. Những cảm nhận trong lòng bạn mỗi ngày chính là vô thường."

Vị tiên sinh này càng hỏi sâu hơn. Người ấy hỏi: "Làm sao chứng minh có kiếp trước?" Tôi đáp: "Diện mạo hiện tại của bạn chính là do kiếp trước mang đến, sự giàu nghèo hiện tại của bạn cũng do kiếp trước mang đến." Người ấy hỏi: "Đó có phải là nhân quả không?" Tôi đáp: "Phải." Người ấy hỏi: "Vô thường cũng là nhân quả sao?" Tôi đáp: "Phải." Người ấy hỏi: "Sức mạnh nào khiến có luân hồi nhân quả và vô thường?" Tôi đáp: "Nghiệp lực." Người ấy hỏi: "Nghiệp lực là gì?" Tôi đáp: "Tự làm tự chịu." Người ấy hỏi: "Vẫn chưa hiểu rõ chữ 'nghiệp' này." Tôi đáp: "Nghiệp là điều không thể nghĩ bàn. Phải học Phật pháp mới có thể chứng minh được."

Tôi nói với vị tiên sinh ấy: Có người hỏi Đức Phật: "Thân người là gì?" Đức Phật đáp: "Ổ trùng." (lời vàng) Người ấy hỏi: "Vậy cuộc đời là gì?" Đức Phật đáp: "Trả nghiệp." (lời vàng) Tôi nói: Câu trả lời của Phật Thích Ca Mâu Ni ngắn gọn mà sâu sắc, thẳng thắn và đi thẳng vào trọng tâm. Tôi cảm nhận sâu sắc sự không thể nghĩ bàn của nghiệp. Như người xưa nói: Bồ Tát sợ nhân. Chúng sinh sợ quả. Thật ra vẫn là sự đáng sợ của nghiệp. Vì vậy con người cần tạo thiện nghiệp, không được tạo ác nghiệp. Có thể tránh được luân hồi vào ba đường ác, quả báo xấu ác, và những vô thường không tốt. Người ấy hỏi: "Thế nào là bất sinh bất diệt?" Tôi đáp: "Ác nghiệp không sinh, thiện nghiệp không diệt." (Đây cũng là lời vàng nhỉ!)

07. Ý thanh tịnh như thế nào?

Người học Mật giáo đều biết "tam nghiệp thanh tịnh", tam nghiệp thanh tịnh là: Thân thanh tịnh. Khẩu thanh tịnh. Ý thanh tịnh. Trong pháp tu Mật giáo, thân thanh tịnh dùng thân ấn, thủ ấn để hành pháp. Khẩu thanh tịnh dùng trì chú để hành pháp. Ý thanh tịnh dùng quán tưởng để hành pháp. Sau cùng của Mật giáo là Tam ma địa.

Có người hỏi tôi: "Con có quá nhiều vọng niệm, tạp tưởng không dứt, làm sao để ý được thanh tịnh?" Đa số người đều có vấn đề này. Người ta hỏi: "Làm sao để trừ tạp niệm?" Tôi đáp: "Hơi thở động thì tâm niệm động, rất khó để dừng tâm niệm, chỉ có thể bắt đầu từ việc điều hòa hơi thở, học cách nhất tâm, thì niệm mới có thể dừng, dừng chính là ý niệm thanh tịnh."

Tu Cửu tiết Phật phong. Tu Kim cang tụng. Tu Bảo bình khí. Tôi nói: "Cửu tiết Phật phong có thể khiến ý niệm chuyên nhất, tu Bảo bình khí để dừng hơi thở, ý niệm không sinh thì có thể dừng." Mỗi khi tâm chạy theo cảnh bên ngoài, lập tức nín thở dừng lại, thu nhiếp thị giác và thính giác, cắt đứt tạp niệm, trở về nhất niệm mà thôi. Vận dụng pháp trì khí, tâm niệm và Bổn tôn hòa nhập vào nhau, thì có thể nhập Tam ma địa. Tôi nói với mọi người: "Đây là khẩu quyết, tâm yếu, chính là lời vàng." Tôi ví dụ: Nhất tâm chính là biển. Tạp niệm chính là sóng. Gió dừng. Sóng liền trở về biển. (Lời vàng quan trọng.)

Đại sĩ Duy Ma Cật nói với tôi: "Nếu ngài có thể hòa tâm vào hư không, như một giọt nước hòa vào biển cả, thì sẽ hiển hiện vô số phân thân." Đó là: Tâm niệm diệt tận. Ý như lưu ly. Có thể nắm bắt. Có thể nắm giữ. Trở về thanh tịnh.

Có người tìm đến tôi hỏi: "Tạp niệm lung tung, làm sao xử lý?" Tôi nói: "Tu pháp hít thở?" Người ấy hỏi: "Pháp hít thở gì?" Tôi đáp: "Pháp hít thở Cửu tiết Phật phong, chỉ cần đặt niệm vào hơi thở ra vào, khi trái khi phải khi giữa, lặp đi lặp lại, hết lần này đến lần khác niệm theo hơi thở ra vào, tạp niệm sẽ không còn lung tung nữa." Đây là giữ nhất tâm. Tu bất kì việc gì, đều phải giữ nhất tâm. Việc gì cũng có thể thành tựu. Ý thanh tịnh là quan trọng nhất, chỉ cần làm được ý thanh tịnh thì khẩu thanh tịnh, thân thanh tịnh đều có thể hoàn thành. Thành tựu thế tục cũng cần giữ nhất tâm. Thành tựu tâm linh cũng cần giữ nhất tâm. Giữ được cân bằng trong ngoài, tâm hạnh nhất như, thì có thể tự giác giác tha, giác hành viên mãn. Lành thay!

08. Ma nghiệp chuyển dịch

Tôi hiểu được sự không thể nghĩ bàn của nghiệp! Ngày xưa. Tôn giả A Nan, bậc đệ nhất đa văn, thưa với Phật Đà: "Con đã hiểu về nghiệp." Phật Đà nhìn ngài và nói: "Còn sớm lắm!" Tôn giả A Nan xoa xoa mũi, ngượng ngùng bỏ đi! Các đồng môn nhìn thấy, cười ha hả!

🌟

Gần đây tôi có một chuyện không thể không nói. Câu chuyện như thế này: Có một đệ tử tên Liên Hoa Chí Thành đến gặp tôi. Anh ấy nói: "Dạo gần đây không hiểu sao, bụng rất kỳ lạ, đường ruột có vấn đề, lúc thì tiêu chảy, lúc thì táo bón. Sáng táo bón, chiều tiêu chảy, cứ thế luân phiên mãi." Anh ấy nói: "Đi khám bác sĩ, uống thuốc, đã thử mọi cách nhưng đều vô hiệu. Giờ chỉ còn biết cầu xin Lư Sư Tôn." Tôi nói: "Tôi sẽ vỗ lưng cho anh!" Anh ấy xoay người lại. Tôi thỉnh Diêu Trì Kim Mẫu làm chủ, vung tay vỗ lưng. "Vỗ... vỗ... vỗ..."

Tôi thấy một ma nghiệp rơi ra khỏi thân của Liên Hoa Chí Thành. Tôi nói: "Xong rồi!" Liên Hoa Chí Thành về nhà, quả nhiên đã khỏi, đường ruột hoàn toàn bình thường, không còn tái phát nữa! Nhưng, Một ngày nọ khi tôi (Lư Sư Tôn) đang ăn cơm, ma nghiệp thừa lúc tôi không để ý, trà trộn vào trong canh, tôi uống canh, nuốt ma nghiệp vào đường ruột. Từ ngày đó, đường ruột khó chịu, buồn nôn muốn ói, cũng y như vậy, sáng táo bón, chiều tiêu chảy, cứ luân phiên mãi. Tôi cũng đi khám bác sĩ, uống thuốc. (vô hiệu)

Một đêm nọ, tôi không chịu nổi nữa, sắp tiêu chảy, tôi cầm quyền trượng của Ma Lợi Chi Thiên, đánh mạnh vào bụng mình, bụng kêu "binh binh binh binh binh". Cuối cùng, đánh được ma nghiệp ra khỏi người tôi.

Tôi hỏi: "Tại sao lại chạy đến người tôi?" Ma nghiệp đáp: "Vì ông đuổi tôi ra, tôi chỉ còn cách chạy đến người ông." Tôi hỏi: "Đây là sự chuyển dịch của nghiệp sao?" Ma nghiệp đáp: "Tôi là quỷ đòi nợ, anh ta chưa trả đủ. Ông cứu anh ta, đương nhiên ông phải trả." Cuối cùng, tôi đành phải siêu độ ma nghiệp để giải quyết.

Tôi nhận ra rằng chịu thay cũng là có thật, chứ không chỉ đơn thuần là oan có đầu, nợ có chủ. Từ đó chứng minh: "Nghiệp quả thật không thể nghĩ bàn!" Sự hình thành của nghiệp quả thật phức tạp, có khi còn vô cớ liên lụy đến người khác. (Nghiệp đời trước, báo đời này.)

Tôi nhận ra: Nghiệp lực như máy dệt. Sợi chỉ này kéo qua kéo lại, sợi chỉ kia kéo Đông kéo Tây, quá phức tạp. Giống như một bức tranh ghép. (Thiện không thuần thiện, ác không thuần ác.) Lại như trúng giải. Không trách được "nghiệp là điều khó nghĩ bàn trong những điều khó nghĩ bàn, bởi vì nó liên quan quá nhiều thứ!" (lời vàng)

09. Cảnh giới bí mật của Hoạt Phật - Phỏng vấn Lư Sư Tôn (1)

Hỏi: (Sư tỷ Bội Quân hỏi) "Thưa Lư Sư Tôn, xin hỏi từ khi nào Ngài bắt đầu nhận ra mình thích viết văn?" Đáp: (Lư Sư Tôn đáp) "Hồi tiểu học, có một tạp chí Bạn Học mở cuộc thi sáng tác, bài của tôi được đăng tải. Thầy giáo đem chuyện này kể cho cả lớp nghe, thế là cả trường đều biết. Từ đó, tôi bắt đầu thích viết văn." Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn, vì sao Ngài kiên trì viết văn như vậy?" Đáp: "Viết văn hàng ngày đã trở thành công khóa thường nhật, tôi luôn cảm thấy đây là việc có ý nghĩa. Đặc biệt là trong việc hoằng dương Phật pháp, đây cũng là một hình thức bố thí pháp." Hỏi: "Ngài có từng nghĩ mình sẽ viết được bao nhiêu cuốn sách không?" Đáp: "Tôi chỉ đơn giản là mỗi ngày viết một bài, sống một ngày, viết một bài. Chưa từng nghĩ sẽ viết bao nhiêu cuốn sách, dù sao đi nữa, số lượng sách chỉ là con số mà thôi." Hỏi: "Viết lách hằng ngày không phải là trải nghiệm của người bình thường, Ngài có thể chia sẻ với chúng tôi tâm cảnh và trạng thái khi viết mỗi ngày là như thế nào?" Đáp: "Hướng đạo sinh phải làm một việc thiện mỗi ngày. Tôi mỗi ngày viết một bài văn, bài văn có ích cho chúng sinh, đây cũng là hành thiện, đây chính là việc thiện hằng ngày của tôi." Hỏi: "Trước khi viết một cuốn sách, Ngài xác định chủ đề của cuốn sách đó như thế nào?" Đáp: "Bổn tôn của tôi sẽ cho tôi cảm hứng, Bổn tôn sẽ chỉ cho tôi biết chủ đề nào có ích cho chúng sinh, vì vậy trong lời tựa tôi thường viết: Mở sách là có lợi ích." Hỏi: "Ngài từng viết trong sách rằng: 'Trong đời này có nhiều việc bị bắt buộc phải làm, chỉ có viết văn là việc tự nguyện làm từ trong tâm', xin hỏi Ngài có bao giờ gặp lúc không thể viết được gì cả và muốn từ bỏ việc viết văn không?" Đáp: "Hiếm khi tôi không viết được. Bởi vì giữa trời đất, đâu đâu cũng là văn chương, trong văn chương có cả trời đất. Tôi kiên trì viết văn, ý chí rất mạnh mẽ, như ăn cơm, ngủ nghỉ vậy. Tôi nói: Chỉ khi nào không thể viết được nữa mới dừng lại." Hỏi: "Theo Ngài, tu hành ảnh hưởng như thế nào đến việc viết văn của Ngài?" Đáp: "Tu hành chính là viết văn, viết văn chính là tu hành. Hai điều là một, một chính là một. Khi cầm bút viết, tinh thần hoàn toàn chuyên nhất, chỉ có một, cảm hứng tuôn trào bất tận..."

🌟

Tôi làm thơ:

Tám mươi tuổi Vẫn cứ mỗi ngày Khi cầm bút Chạm tới đại thiên Đời này cứ thế miệt mài viết Tuy là thành tựu Kim Tiên như vậy Nhờ có diệu bút nở hoa của tôi Tung hoành cõi Ta Bà Vẫy vùng một đời Chỉ nhờ viết sách Vun đắp tâm điền.

10. Cảnh giới bí mật của Hoạt Phật - Phỏng vấn Lư Sư Tôn (2)

Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn, nghe nói Ngài làm việc bận rộn cả ngày, và từ khi đại dịch bắt đầu cho đến bây giờ, mỗi đêm vào lúc buồn ngủ nhất, Ngài vẫn siêu độ cho vong linh. Sinh nhật Ngài có nghỉ không? Bận rộn như vậy, Ngài có hạnh phúc không?" Đáp: "Tôi tu pháp siêu độ, một năm 365 ngày, mỗi ngày tu một lần, chưa từng gián đoạn. Sinh nhật cũng không nghỉ. (Nếu tôi nghỉ, những vong linh đang chờ siêu độ biết làm sao?) Tôi tu pháp như vậy rất hạnh phúc, bởi vì vong linh được độ hóa về cõi Phật tịnh độ. Cuộc đời tôi có ý nghĩa nhất! Niềm hạnh phúc của tôi chính là cứu độ chúng sinh đến bỉ ngạn."

Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn, trong nhận thức của nhiều người, Ngài là bậc 'toàn năng', chủ yếu vì Ngài đã thị hiện rất nhiều phép mầu cứu độ. Có rất nhiều câu chuyện kể về những phép mầu Ngài thị hiện, điều này cũng khiến Ngài bị phê bình, xin hỏi Ngài nghĩ gì về những lời phê bình (về phép mầu) này?" Đáp: "Khi tu hành, tôi hòa nhập với Bổn tôn nên tự có được pháp lực của Bổn tôn. Tu hành hòa nhập với hư không nên tự sinh ra lực của hư không. Đây là sự hiển lộ tự nhiên của thần thông, không phải cầu mà có, là điều rất tự nhiên. Thần túc thông. Tha tâm thông. Túc mệnh thông. Thiên nhãn thông. Thiên nhĩ thông. Thậm chí là Lậu tận thông. Những phép mầu này tự nhiên xuất hiện, không phải do tôi tu tập mà có, mà là tự nhiên mà đến! Sự phê bình, phê phán hay phỉ báng của người khác là việc của họ, tôi chưa bao giờ bận tâm. Trong mọi việc làm của mình, miễn là thiện lành, có lợi ích cho chúng sinh, tôi đều tinh tấn thực hiện. Không hề oán thán. Lời phê bình của người khác, tôi không để trong lòng, phê phán hay phỉ báng cũng vậy. Có lỗi thì tôi sẽ sửa. Không lỗi thì thanh thản yên lòng. Tôi xin cảm ơn mọi người đã chỉ bảo, cảm ơn và cảm ơn! Tôi đã học được cách tôn kính mỗi chúng sinh (Phật)."

Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn, nghe nói Ngài là: Hóa thân của ngài Xá Lợi Phất, Hóa thân của ngài Virupa, Hóa thân của Đại sư Không Hải, Hóa thân của vua Nhân Tông triều Tây Hạ, Hóa thân của ngài Tsongkhapa, Hóa thân của Lục Tổ Huệ Năng và nhiều vị khác nữa. Có rất nhiều thuyết về các kiếp trước của Lư Sư Tôn... và những điều này cũng đã được các vị Thượng sư của Ngài công nhận. Xin hỏi Lư Sư Tôn, Ngài nghĩ gì về những kiếp trước này?" Đáp: "Những kiếp trước đều đã qua rồi, quá khứ đã tan như mây khói. Dĩ nhiên, Lư Sư Tôn của hiện tại mới là điều quan trọng nhất. Vì vậy mới nói 'sống trong hiện tại', tôi cũng biết rằng, Lư Sư Tôn của hiện tại rồi cũng sẽ trở thành quá khứ. Tương lai thì vẫn chưa đến. Cho nên nói: Quá khứ không thể nắm bắt! Hiện tại không thể nắm bắt! Tương lai không thể nắm bắt! Đó chính là vô sở đắc, đoạn trừ phiền não tức thì. Tôi cũng thường nghĩ, so với các bậc thánh hiền trong quá khứ, Lư Sư Tôn hiện tại của tôi thật không đáng kể. Ngưỡng mộ cao sơn. Cần phải tinh tấn hơn nữa."

Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn! Ngài từng nói rằng bệnh khổ của nhân gian là nỗi khổ lớn nhất. Trong sáu năm nhập thất, Ngài đã trải qua tình trạng não bị tách làm tám mảnh đến mức gần chết, nỗi đau khổ khiến người không nỡ nghe, Ngài bị muỗi đốt đến không thể ngủ, bị kiến lửa cắn đến toàn thân sưng đỏ, thậm chí trầm cảm, sốt cao, chỉ một lòng muốn giải thoát. Lúc đó, Ngài đã làm thế nào để vượt qua tình trạng thập tử nhất sinh ấy, dựa vào sức mạnh và phương pháp gì? Bởi vì khi chúng con lâm trọng bệnh và đứng trước cửa tử, kêu trời trời không thấu, gọi đất đất chẳng hay, lúc này làm sao có thể như Sư Tôn, vượt qua mà tâm vẫn không rối loạn?" Đáp: "Tôi, Lư Sư Tôn đương nhiên biết rằng, tôi đến đây là để lợi ích chúng sinh, pháp luân chưa chuyển xong, làm sao có thể ra đi. Vì vậy tôi đi tìm Dược Sư Phật, tại Gyeongju, Hàn Quốc, tôi đã thấy được Dược Sư Phật, Nhật Quang Nguyệt Quang Bồ Tát, Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát, 12 Dược Xoa Thần Tướng. Tôi tự biết, bệnh sẽ khỏi. Tôi luôn có niềm tin kiên định, từ khi Diêu Trì Kim Mẫu khai thiên nhãn, tôi chỉ biết một lòng. Tôi nói: Sống một ngày, cảm ơn một ngày. Sống một ngày, vui vẻ một ngày. Sống một ngày, tu pháp một ngày. (Đây là lời vàng của tôi.) Tôi đã nương vào "sức mạnh của niềm tin" để vượt qua muôn vàn khó khăn."

Hỏi: "Xã hội hiện nay có thể nói là không còn điều gì cấm kỵ, có người bảo rằng trong thời đại Internet, ai cũng có cơ hội nổi tiếng 15 phút trong đời, quan niệm hiện đại luôn khuyến khích chúng ta phải mạnh dạn bày tỏ. Thế nhưng Lư Sư Tôn thường dạy đệ tử phải an nhẫn. Làm sao dung hòa giữa quyền phát ngôn và nhẫn nhục trong việc hoằng pháp? Khi đối mặt với những lời nói và cách đối xử vô lý của người khác, theo quan điểm Phật pháp, có phải lúc nào cũng nhẫn nhục không?" Đáp: "Xã hội hiện đại muôn hình vạn trạng, đủ mọi hạng người, Phật pháp có tám vạn bốn nghìn pháp môn, tùy theo căn cơ của mỗi người mà ban cho phương pháp độ hóa. Sự độ hóa của Phật pháp cũng không thể thiếu thiện căn. Chúng ta chú trọng: Ác niệm không sinh. Thiện niệm không diệt. Đối với những điều ác ý, không thân thiện, không hợp lý, chúng ta tu nhẫn nhục ba-la-mật. Nhẫn nhục là một trong các ba-la-mật. Cảnh giới cao nhất là "vô sinh pháp nhẫn". Chứng đắc "vô sinh pháp nhẫn" thì sẽ không thoái đạo tâm! Thế giới này là huyễn hóa mà thành. Như một ống kính vạn hoa. Cũng chỉ có nhẫn nhục mới có thể đến được bờ giác!"

Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn, mỗi ngày Ngài viết văn, vẽ tranh và tu hành, có bao giờ Ngài muốn nghỉ ngơi, lười biếng một chút không?" Đáp: "Như câu hỏi của cô: Mỗi ngày tôi viết một bài văn. Mỗi ngày vẽ một bức tranh. Mỗi ngày tu pháp siêu độ Nghìn chiếc thuyền pháp. Bây giờ tôi không thể không tu pháp siêu độ Nghìn chiếc thuyền pháp được nữa, tại sao vậy? Bởi vì các chúng sinh cõi u minh đã quen rồi, họ đứng đợi ở đó, nếu một ngày không tu thì họ biết đi đâu, họ làm ồn ào không chịu nổi. Nếu có một ngày không viết, tôi cảm thấy phí phạm cả một ngày, mỗi ngày đều là một ngày có ý nghĩa, một ngày không viết, trong lòng buồn đến chết được. Vẽ tranh cũng vậy. Đây là trách nhiệm, mỗi ngày đều phải để lại một cái gì đó cho người đời. Không dám nghỉ ngơi. Không dám lười biếng. Không dám lãng phí. Có lẽ đây chính là người nghiện việc!"

Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn, từ khi Ngài nổi danh quốc tế với tài thần toán cho đến khi tu hành thành Hoạt Phật, chắc hẳn Ngài đã xem tướng số cho vô số người và cứu giúp không biết bao nhiêu người. Năm nay Ngài đã 80 tuổi, xin Ngài chỉ dạy cho chúng con - những chúng sinh bình thường này trí tuệ gì để đối mặt với khổ, không, vô thường và an bình sống qua kiếp này?" Đáp: "Phật có bốn pháp ấn, đó là: Chư hành vô thường. Chư pháp vô ngã. Niết bàn tịch tĩnh. Nhất thực tướng ấn Phật Đà cũng dạy: Khổ là chân đế. Cho nên khổ, không, vô thường vốn là chân lý, không ai có thể tránh khỏi khổ, không, vô thường. Nói thật lòng, hạnh phúc thường cũng là nhân của khổ. Con người sống trên đời, vốn dĩ đến đây để trả nghiệp, nghiệp lực khiến người ta khổ, không, vô thường. Còn về việc làm sao để an bình sống qua kiếp này? Chỉ có thấu triệt! Nghĩa là: Nhìn thấu. Buông bỏ. Tự tại. Phải biết rằng cuộc đời chỉ là một giấc mộng huyễn, có một bài kệ về mộng huyễn: Tất cả pháp hữu vi. Như mộng huyễn bọt bóng. Như sương cũng như điện. Nên quán chiếu như vậy. Tôi thường nói với mọi người: "Tất cả rồi sẽ qua đi!" Chỉ có nhìn thấu khổ, không, vô thường. Buông bỏ phiền não chấp trước. Mới có thể bình an tự tại." (lời vàng)

Hỏi: "Thưa Lư Sư Tôn, đối với người chưa quy y theo bất kì dòng truyền thừa nào, người ấy cảm thấy gần đây mọi việc đều không suôn sẻ, và muốn tìm cách thay đổi vận mệnh, nếu hôm nay người ấy đến xin Ngài chỉ dạy, Ngài sẽ dùng phương pháp gì để chỉ dạy họ?" Đáp: "Có một người gặp nhiều chuyện không suôn sẻ, đã đến hỏi một vị thánh nhân. Hỏi: Gần đây mọi việc đều không suôn sẻ, làm sao để thay đổi? Thánh nhân đáp: Gần đây ông có giữ tâm thanh tịnh không? (Thánh nhân hỏi: thân có thanh tịnh chăng? khẩu có thanh tịnh chăng? ý niệm có thanh tịnh chăng?) Câu trả lời của tôi, Lư Sư Tôn là: Hãy bố thí! Cứu trợ thiên tai và người nghèo khó. In ấn kinh sách thiện. Nếu có tín ngưỡng thì: Tụng Chân Phật Kinh. Tụng Cao Vương Kinh. (Dùng kinh lực để chuyển vận.) Sức mạnh của việc in ấn kinh sách thiện rất lớn, ví dụ như: Ngọc Lịch Bảo Sao, Văn Xương Đế Quân Khuyên Thế Văn, v.v. Trì chú nương vào chú lực. Thiền định nương vào định lực. Làm việc thiện, cứu giúp người nghèo khó, đó là thiện lực. Cầu nguyện Bổn tôn, đó là Bổn tôn lực. In kinh sách, đó là kinh lực. Tu pháp nương vào pháp lực. (tức, tăng, hoài, tru) ................"

🌟

Viết vài bài thơ ngắn về cuộc phỏng vấn: Khoảng khắc hoàng hôn thật thanh nhàn Bất ngờ phát sinh cuộc phỏng vấn Bạn hỏi tôi đáp theo kinh nghiệm Mười phần chắc cũng được tám chín.

Liên Sinh vốn là khách khói mây Vì độ chúng sinh bày tỏ tâm điền Điều hỏi cũng là chuyện nhân sinh Hỏi đáp đều được ghi cẩn thận.

Tiếng tăm gần đây cũng hưng thịnh Nhưng với tu hành chẳng liên quan Hành giả nên ở chốn sơn lâm Tùy thuận thuận theo cõi Ta Bà

🌟

Những gì tôi nói có đúng không? Xin các bậc quân tử chỉ dạy, Lành thay!

11. Tam quang gia trì

Trong pháp tu Mật giáo của chúng ta có ba ánh sáng gia trì: Trán là ánh sáng trắng. Cổ họng là ánh sáng đỏ. Vùng tim là ánh sáng lam. Bổn tôn dùng ánh sáng chiếu khắp hư không pháp giới. Ngài phóng ra ba luồng ánh sáng gia trì hành giả. Ánh sáng trắng có thể rửa sạch lo âu, giải trừ nỗi khổ của tâm tham, đạt được sự an tịnh nội tại. Ánh sáng đỏ có thể thanh lọc máu huyết tiêu trừ sân khổ, tăng thêm phúc báo, viên thành thệ nguyện của hành giả. Ánh sáng lam có thể trừ bỏ ác nghiệp do thân tâm tạo ra, trừ bỏ bệnh khổ, tăng trưởng giác tuệ, tăng cường năng lượng tích cực. Thì ra, Tam quang trắng, đỏ, lam chính là để tiêu trừ tham, sân, si và tăng trưởng giới, định, huệ. (lời vàng)

Tôi xin nói với mọi người: Khi chúng ta tu pháp, thông qua thiền định đúng cách (tư thế) và phương pháp hô hấp đúng. Nhờ tam quang gia trì, tăng trưởng quán tưởng vững vàng, vọng niệm tịch diệt, đạt đến cảnh giới thân tâm cân bằng, có thể cảm nhận được sự tồn tại sâu sắc hơn.

Tam quang gia trì là hợp nhất với Bổn tôn, nghi thức bên ngoài và sự chuyên nhất bên trong, đây là một pháp then chốt quan trọng nhất. Cuối cùng đạt được: Cung điện. (thù thắng) Tịnh thổ. (trang nghiêm) Bổn tôn. (vi diệu) Vì vậy, tam quang gia trì của Mật giáo là một trí huệ kỳ diệu. Bổn tôn là ta, ta là Bổn tôn. Không hai không khác. Bổn tôn dạy: "Các con hãy lắng nghe kĩ! Nếu muốn vào Tam ma địa, hãy dụng tâm tu tập đạo lý tam quang gia trì này. Nếu muốn kéo dài tuổi thọ, cầu tài lộc, được an lạc, hãy thực tu tịnh tâm bằng tam quang gia trì. Nếu muốn giải thoát vô minh, rửa sạch khổ đau của mình và chúng sinh trong lục đạo, khi tam quang gia trì hãy hồi hướng tam quang cho chúng sinh. Nếu muốn được người tôn kính, trở thành người lãnh đạo, cũng làm như vậy." (lời vàng)

Tam quang gia trì nhỏ bé này hóa ra là: Kéo dài tuổi thọ trường sinh. Lìa khổ được vui. Cam lộ pháp thủy. Nhập Tam ma địa. Thành tựu tất cả.

Thực ra tam quang gia trì tuy nhỏ bé nhưng ẩn chứa một bí mật to lớn. Điều này có nghĩa là chỉ những người có trí tuệ mới có thể ứng dụng, còn những người không có trí tuệ, chỉ nghe qua tai mà thôi! Khi Bổn tôn hiển hiện, Ngài có thân ánh sáng trắng, hư không trong ngoài sáng tỏ. Có khi là cầu vồng rực rỡ. Ngài nói ra những lời trí huệ vô biên. Tràn đầy tình thương với chúng sinh. Ngài ngự trên tòa sen. Khi khai thị, từ kim khẩu tỏa ra chuỗi hoa lửa. Tay trái kết ấn sen. Tay phải kết thuyết pháp ấn. Tam quang gia trì của Ngài, ánh sáng miên man không dứt. Bổn tôn và Lư Sư Tôn hợp nhất làm một, hóa hiện thành hình tướng mới nhất, không chỉ tràn đầy sinh lực mà còn có pháp lực biến hóa kỳ diệu. Như thế. Tịnh thổ hiển hiện.

12. Già và bệnh

Trong Kinh Hoa Nghiêm, tôi đọc được một lời vàng: "Bồ Tát mới học bồ đề, phải biết bệnh tật là chướng ngại lớn nhất. Nếu chúng sinh thân có bệnh tật, tâm ắt không an. Làm sao có thể tu tập các ba-la-mật? Vì vậy Bồ Tát khi tu bồ đề, trước hết phải chữa trị những bệnh tật nơi thân." Tôi thường nói: "Già và bệnh gắn liền!"

Tôi (Lư Sư Tôn) lúc còn trẻ, không biết bệnh là gì? Về sau: Sáu mươi tuổi — huyết áp tăng cao. Bảy mươi tuổi — thỉnh thoảng hay quên. Tám mươi tuổi — chân đi lảo đảo.

"Lảo đảo" ở đây chỉ trạng thái đi đứng. Còn có rất nhiều con ma bệnh tật đang rình rập, sẵn sàng gây rắc rối bất cứ lúc nào. Ngoài huyết áp cao còn có cholesterol. Lại còn axit béo, đường huyết. Ngoài ra: Xương ống chân. Xương sống. Cột sống thắt lưng. Gai xương. Đau thần kinh toàn thân. Các cơ quan lão hóa. .................

Năm tôi 79 tuổi, tôi gặp phải sụt cân đột ngột, phù chân, protein nước tiểu, kali máu cao... Than ôi! Thôi không nói nữa! Chỉ vì bác sĩ chuyên khoa thay đổi thuốc, khiến năm đó tôi rất khó khăn. Một hành giả, bệnh là một chướng ngại lớn. Thân không an thì tâm làm sao an? Về sau, 80 tuổi, mọi thứ dần dần ổn định lại! Cuối cùng tôi đã hiểu: Nỗi khổ của tuổi già và bệnh tật. Giờ đây, trải qua nhiều kinh nghiệm, tôi đã hiểu vì sao bệnh từ miệng mà vào?

Ở đây tôi có hai lời vàng. "Có ăn uống lành mạnh thì không cần uống thuốc." "Không có ăn uống lành mạnh thì uống thuốc cũng vô ích." Câu đầu, ai cũng hiểu. Câu sau, nhiều người không hiểu? Bởi vì chỉ uống thuốc mà không có chế độ ăn uống lành mạnh thì uống thuốc cũng chẳng có tác dụng gì. Sức khỏe của cơ thể cần phải có ăn uống lành mạnh, đây mới là điều quan trọng nhất. (lời vàng) "Lúc trẻ, bạn hành hạ cơ thể. Đến già, cơ thể sẽ hành hạ bạn." (lời vàng) "Bạn ăn gì thì bạn sẽ trở thành người như thế!" (lời vàng)

Còn có một lời vàng khác khiến tôi vô cùng xúc động! "Món quà quý giá nhất mà Đấng Tối Cao ban tặng cho loài người chính là thực vật." Ăn — lấy thực vật làm chính. Mặc — dệt từ thực vật. Ở — xây dựng từ thực vật. Đi — trang bị từ thực vật. Ngay cả thuốc Đông y và Tây y chúng ta dùng, phần lớn đều được chiết xuất và tổng hợp từ thực vật. Không khí để loài người tồn tại là sản phẩm tươi mới từ thực vật (quang hợp). Con người phá rừng bừa bãi thực ra là một thảm họa. Chúng ta nên thấu hiểu tầm quan trọng của thực vật và trân quý nó. Hãy cảm nhận tận tâm can về thực vật.

13. Thiên đường và địa ngục

Có người hỏi tôi: "Có thiên đường và địa ngục không?" Tôi đáp: "Có." Tôi giải thích: "Khi bạn cảm thấy rất hạnh phúc, đó chính là thiên đường. Khi bạn cảm thấy rất đau khổ, đó chính là địa ngục." Tôi nói: "Trong bệnh viện, những bệnh nhân đang chịu đựng bệnh tật, bệnh viện chính là địa ngục. Ở công viên giải trí với những trò chơi vui vẻ, công viên giải trí chính là thiên đường." (Đây là ẩn dụ.)

Về việc lên thiên đường hay xuống địa ngục, tôi hiểu như sau: Làm những việc đúng đắn sẽ được lên thiên đường. Làm những việc sai trái sẽ bị đọa địa ngục. Mọi việc đều có cái "nên làm" và "không nên làm". Hành vi thiện sẽ có quả thiện. Hành vi ác sẽ có quả ác. Thiên đường và địa ngục được phân biệt dựa trên thiện ác. Thiên đường tất nhiên có nhiều niềm vui. Địa ngục tất nhiên phải chịu khổ không thể chịu nổi. Thiên đường và địa ngục là những khái niệm tương đối, đôi khi chỉ cách nhau trong một niệm.

Người hỏi: "Có thiên đường địa ngục thực sự không?" Tôi hỏi lại: "Có cõi người không? Thiên đường địa ngục cũng như vậy." Người ấy nói: "Cõi người là huyễn hóa." Tôi nói: "Thiên đường địa ngục cũng thế." Thiên đường không chỉ có một tầng, mà có nhiều tầng khác nhau, có Dục giới thiên, có Sắc giới thiên, có Vô sắc giới thiên. Địa ngục tất nhiên không chỉ có một tầng, cũng có nhiều tầng, như tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh, lại có địa ngục Vô gián.

Các địa ngục phụ thuộc cũng rất nhiều. Như địa ngục cận biên: Sa mạc. Hoang dã. Bờ biển. Núi non. Có rất nhiều địa ngục cận biên.

Việc đến thiên đường hay địa ngục là do nghiệp báo nhân quả mỗi chúng sinh tự chuốc lấy, hoàn toàn do tự mình tạo ra, tất cả đều liên quan đến nghiệp của chính mình. Hành vi của chúng ta ở cõi người được chia thành: Hành vi thường nhật. Hành vi riêng biệt. Hành vi lựa chọn. Hành vi thường nhật chỉ việc ăn uống ngủ nghỉ v.v… Hành vi riêng biệt chỉ việc đi công tác, du lịch, giải trí, nhiệm vụ v.v. Hành vi lựa chọn chỉ những việc xảy ra đột ngột, bạn phải lựa chọn nên làm hay không nên làm. Ví dụ: Sát sinh. Trộm cắp. Tà dâm. Nói dối. Uống rượu. Những điều này cần phải tránh, vì đều là nghiệp ác. Lại nữa: Bố thí, tinh tấn, nhẫn nhục, trì giới, thiền định, trí huệ, những điều này đều là nghiệp thiện. Đi làm tình nguyện viên, kêu gọi quyên góp, in ấn kinh sách thiện lành, kinh điển, học Phật, tĩnh tọa... Thiên đường địa ngục ở một tâm. Thiện ác cũng ở một tâm.

14. Vô thượng chính đẳng chính giác

"Vô thượng chính đẳng chính giác" là một thuật ngữ chỉ sự giác ngộ tối thượng trong Phật giáo. Các đệ tử của tôi có nhiều kiến giải khác nhau về "Vô thượng chính đẳng chính giác", nhưng không hẳn giống nhau. Cuộc đối đáp giữa tôi và các đệ tử như sau: Đệ tử A nói: "Chân lý chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" Đệ tử B nói: "Thân khẩu ý thanh tịnh chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" Đệ tử C nói: "Bình đẳng nhất như chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" D nói: "Không chấp trước vạn pháp chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" E nói: "Giải thoát chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" F nói: "Không chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" G nói: "Phật tính chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" H nói: "Pháp nhĩ bản nhiên chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" I nói: "Ý thức tối thượng chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!" J nói: "Tất cả vốn sẵn thành tựu chính là vô thượng chính đẳng chính giác." Tôi nói: "Rất tốt!"

Thế là mọi người đuổi theo tôi và hỏi: "Vô thượng chính đẳng chính giác của Lư Sư Tôn là gì?" Tôi quay người bỏ chạy. Mọi người đuổi theo. Vì tôi (Lư Sư Tôn) đã 80 tuổi, chạy không nhanh nên rất nhanh bị đuổi kịp. Mọi người hét lên: "Vô thượng chính đẳng chính giác là gì?" Tôi nín thinh không nói. Tôi học theo cách im lặng của Văn Thù và sự trầm mặc của Duy Ma Cật, bởi hễ mở miệng là "sai". Nhưng mọi người không để yên, cứ bắt tôi phải trả lời. Tôi đành phải nói: "Vô sở đắc!" "Không can thiệp!" "Không hề gì!" Cuối cùng tôi nói: "Bên ngoài hiển hiện đại lạc, bên trong tàng chứa quang minh, mà nghĩa chân thực là đệ nhất nghĩa không." Tôi thừa nhận, tôi nói toàn "lời thừa". (nói cũng như không)

15. Giác ngộ tâm đồng thể

Đấng Tối Cao của tôi nói với tôi: "Con đã đạt đến một cảnh giới rất cao." Tôi hỏi: "Đó là cảnh giới gì?" Đấng Tối Cao nói: "Tâm đồng thể." Tôi quay lại nhìn bản thân, quả đúng là như vậy. Trong thế giới nội tâm của tôi, tôi đã cảm nhận được nỗi khổ của người khác, và dần dần sinh khởi tâm đại từ bi đối với tất cả mọi người. Vì thế tôi nói: Tôi sẽ không kiện tụng ai, bởi nếu tôi khởi kiện, đối phương chắc chắn sẽ đau khổ, và tôi cũng sẽ vất vả. (Tôi không muốn cả hai bên đều khổ.) Tiếp nữa: Tôi không oán hận ai, bởi nếu tôi oán hận người khác, chính tôi sẽ khổ sở, và người khác cũng vậy. (Tôi không muốn cả hai bên đều khổ.) Thực ra cõi người này toàn là khổ, tôi luôn mang tâm từ bi và thương yêu đối với nỗi khổ của tất cả mọi người. Người khác khổ. Lòng tôi khổ. Nhìn thấy nhân loại trên thế gian chịu khổ vì chiến tranh, chịu khổ vì dịch bệnh. Động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, bão tố, đói kém... Tôi rơi lệ. (Tôi dùng siêu độ Nghìn thuyền pháp.) Không chỉ đối với con người, tôi siêu độ cho tất cả sinh linh. Tôi thấu hiểu nhân duyên quả báo, đối với những bệnh nhân đang chịu khổ trong "phòng chăm sóc đặc biệt" của bệnh viện, tôi dành cho họ tình thương yêu lớn nhất, những gì tôi có thể bảo hộ, tôi đều tận lực bảo hộ. (Tôi có phân thân.)

Tôi tận hết sức mình để làm được: Vô duyên đại từ. Đồng thể đại bi. Tôi thành lập "Quỹ từ thiện Lư Thắng Ngạn" chỉ vì mục đích bố thí thuần túy. Tôi sẵn sàng ở trong bóng tối, bên cạnh những người khổ nhất, tôi cần phải giúp đỡ người khác. Thân không hại người. Khẩu không hại người. Ý không hại người. (Người khác bao gồm tất cả sinh linh.) (lời vàng)

Tôi nguyện: Tài thí. Pháp thí. Vô úy thí. (Cống hiến trọn vẹn thời gian và sinh mệnh.) Tôi thấu hiểu được ý nghĩa chân thật khi Đức Phật đảnh lễ bộ xương khô. Đệ tử hỏi: "Vì sao lạy bộ xương khô?" Đức Phật đáp: "Có thể đó là cha mẹ đời trước của ta." Chỉ một câu nói ấy thôi đã khiến tôi chấn động! (Tất cả sinh linh trên thế gian này đều có thể là cha mẹ anh chị em đời trước của mình.) Tôi có một kiểu tình nghĩa như cha mẹ anh chị em với tất cả mọi người trong thiên hạ. (Kể cả những kẻ thù ghét tôi.) Dần dần... Tâm tôi rộng lớn vô biên. Tôi và hư không hợp nhất. Phân thân đi khắp nơi cứu người, cứu sinh linh. Tôi đã không còn bản thân nữa, mọi việc không vì mình nghĩ, mọi việc vì người khác nghĩ. Bản thân nghĩ cho người khác chính là hạnh phúc. Bản thân thương yêu chúng sinh là đại ái. Tâm đồng thể chính là bình đẳng không hai.

16. Còn có sự giác ngộ cao hơn tâm đồng thể

Tôi hỏi Đấng Tối Cao: "Còn có cảnh giới nào cao hơn tâm đồng thể không?" Đấng Tối Cao đáp: "Có." Tôi hỏi: "Đó là gì?" Đấng Tối Cao đáp: "Khi tất cả không còn sự tồn tại nào khác." Tôi hỏi: "Không còn sự tồn tại nào khác là gì?" Đấng Tối Cao đáp: "Bản giác." Tôi hỏi: "Bản giác là gì?" Đấng Tối Cao đáp: "Phật tính, chân tính, chân như bản tính, ý thức tối thượng, chân ngã." Tôi nói: "Lư Sư Tôn muốn liễu ngộ bản giác?" Đấng Tối Cao nói: "Hãy lắng nghe kĩ, không hiện hữu mà không đâu không hiện hữu, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi. Ở trên vạn hữu, lại ở trong vạn pháp, là nguồn gốc của các pháp, là căn cứ của giải thoát." Tôi nói: "Xin giải thích thêm?" Đấng Tối Cao nói: "Chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng, đồng chân tế, bình đẳng pháp tính." Tôi nói: "Thật khó hiểu quá!" Đấng Tối Cao nói: "Văn tự, ngôn ngữ đều không thể giải thích được." Tôi nói: "Diệu không thể nói, không thể diễn tả."

🌟

Cái gọi là cảnh giới, cũng chính là không gọi là cảnh giới. Đây là "bất nhị". Tuyệt đối. Chúng ta gọi đó là "chân như thật tướng", "nhất thật chi lý", "như thế như thế". Hành giả đã ngộ nhập! Chính là: Văn Thù Bồ Tát không nói. Duy Ma Cật im lặng. Trong Kinh Duy Ma Cật, Duy Ma Cật hỏi Văn Thù Bồ Tát: "Rốt ráo là gì? Thế nào là bất nhị?" Văn Thù Bồ Tát đáp: "Đối với tất cả pháp đều không vọng thêm ngôn thuyết, không vọng thêm phân biệt, thậm chí xa lìa tất cả vấn đáp." Văn Thù Bồ Tát hỏi lại Duy Ma Cật: "Ngài cũng nói thử xem!" Duy Ma Cật nghe Văn Thù hỏi, nhưng im lặng không nói. Văn Thù cảm thán nói: "Lành thay! Lành thay! Cho đến buông bỏ tất cả ngôn ngữ văn tự, ngay cả không thể nói cũng không nói, đây mới chính là."

🌟

Tôi viết một bài thơ: Chiều hoàng hôn rực đỏ, Chiếu rọi chùa Lôi Tạng; Lái xe về nhà thôi, Buông hết mọi pháp sự. Dọc đường mờ sương khói, Đèn đỏ dừng chân ngay; Đèn xanh lại phóng tới, Cuối cùng là chốn xa. (Đã về đến nhà, một ngày nữa lại trôi qua!)

17. Cảm tưởng tuổi 80

Chúng ta hãy xem một lá thư mà Thượng sư Liên Ha viết cho Lư Sư Tôn.

Sư Phật kính yêu nhất, Phật an! Ngu đệ tử Liên Ha một lòng đảnh lễ và xin dâng lên Sư Phật cúng dường thân khẩu ý!

Sinh nhật 80 tuổi của Sư Phật sắp đến rồi, đệ tử xin trước hết chúc Sư Phật sinh nhật vui vẻ! Ngày ngày hạnh phúc, khỏe mạnh trường thọ, thể lực mạnh mẽ như đại địa, tâm tình vui vẻ như gió xuân, hoằng pháp độ chúng như thái dương, xin Phật trụ thế như sao Bắc Đẩu.

Đại thọ 80 của Sư Phật và việc hoàn thành 300 văn tập là niềm vui lớn nhất của Chân Phật Tông, là cột mốc mang tính lịch sử, vì vậy chúng ta gọi đây là "Đại lễ song hỉ - Thánh thọ vượt 80, Văn tập vượt 300", và ngày mai đệ tử sẽ bay từ Brazil đến Seattle, chính là để đến sớm chuẩn bị cho đại lễ này.

Thực ra công tác chuẩn bị cho lễ kỷ niệm đã bắt đầu từ rất sớm, do Tông Ủy Hội, Cầu Vồng Lôi Tạng Tự và Seattle Lôi Tạng Tự cùng phối hợp tổ chức. Chúng con đã cùng nhau bàn bạc kĩ lưỡng về việc trang trí mới mẻ cho địa điểm, cho đến cả việc bài trí đặc biệt cho điện Hộ Ma, nhà ăn, hệ thống âm thanh, hệ thống phát trực tiếp, hệ thống LED, quà chúc mừng, hình thức chương trình, thậm chí cả bánh sinh nhật cũng khác với mọi năm, để làm nổi bật sự khác biệt của đại lễ song hỉ này, mang đến những bất ngờ đặc biệt cho Sư Phật và đại chúng.

10 năm trước, đệ tử đã lên kế hoạch và chủ trì lễ mừng thọ 70 tuổi của Sư Phật tại Cầu Vồng Lôi Tạng. Vào cuối chương trình, đệ tử đã thổ lộ bằng tất cả tấm lòng rằng, mong được tổ chức lễ mừng đại thọ 80 cho Sư Phật sau 10 năm nữa! Thật trùng hợp là đúng 10 năm sau, sinh nhật của Sư Phật rơi vào ngày Chủ nhật và lễ mừng được tổ chức tại Cầu Vồng Lôi Tạng!

Đệ tử cầu xin Sư Phật vận dụng thần thông, gia trì mạnh mẽ để mọi công tác chuẩn bị cho lễ mừng được hanh thông, thời tiết trong ngày được thuận lợi, tất cả các hoạt động của lễ mừng đều viên mãn, để toàn bộ "Đại lễ song hỉ - Thánh thọ vượt 80, Văn tập vượt 300" được thành công viên mãn, trời người hoan hỷ, lưu lại những kỷ niệm vĩnh hằng và tốt đẹp cho Sư Phật và mọi người.

Sư Phật kính yêu, song song với việc thúc đẩy công tác chuẩn bị lễ kỷ niệm, sự nghiệp giáo dục Chân Phật cũng đang không ngừng phát triển. Hôm nay, khóa học "Nghi lễ cuộc sống" của Đại học Trực tuyến Chân Phật đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt dưới sự gia trì của Sư Phật, số lượng học viên tham gia đã vượt quá 1.200 người. Khóa học do Thượng sư Liên Phi, Thượng sư Liên Duyệt và giảng viên Vũ Tự Tại phối hợp giảng dạy. Mọi người hăng hái đặt câu hỏi, không khí vô cùng sôi nổi, phản hồi rất tốt, ai cũng cảm thấy đây là một khóa học rất thiết thực và gần gũi với cuộc sống. Việc đào tạo đội ngũ hoằng pháp mới cho Chân Phật Tông qua "Pháp học đường" cũng đang được tiến hành. Nửa cuối năm sẽ lần lượt triển khai các khóa học trực tiếp, lớp nâng cao dành cho Thượng sư, và các khóa học phổ thông. Kính xin Sư Phật gia trì cho sự nghiệp giáo dục Chân Phật không ngừng phát triển, mang lại lợi ích và tiến bộ cho đại chúng.

Sư Phật kính yêu, tuy công việc sự nghiệp bồ đề rất bận rộn, nhưng đệ tử vẫn luôn duy trì hai phương diện tinh tấn: tinh tấn trong tu trì và tinh tấn trong vận động.

Về mặt tu pháp, đệ tử mỗi ngày đều kiên trì bốn thời công phu, theo chỉ dẫn của Sư Phật, tăng cường tu trì về khí thông trung mạch và chuyết hỏa. Hiện tại cảm nhận về chuyết hỏa rất tốt, nhiệt và quang xuất hiện rất nhanh, phần thân dưới dường như hóa thành hoa sen lửa, Tâm luân và Mi tâm luân đều có thể phát ra ánh sáng. Đệ tử lại thầm niệm tâm chú của Sư Tôn, cảm thấy bản thân hóa thành Sư Tôn an trụ trên hoa sen lửa, cuối cùng hòa nhập vào trong không tính quang minh. Lúc đó có sự thể ngộ rằng: diệu hữu = chân không, sắc = không, dùng một phương trình toán học để biểu thị thì là: 1 = 0.

Vì vậy đệ tử hiện giờ đã thấu hiểu sâu sắc, tại sao Đạt Ma Tổ sư hỏi Sư Phật: "Cái gì là không?" Sư Phật đáp: "Hữu." Tổ sư hỏi: "Cái gì là hữu?" Sư Phật đáp: "Không."

Đệ tử trong thiền định thể ngộ được rằng, câu trả lời của Sư Phật chính là lời đáp hoàn hảo nhất, thâm sâu nhất, vi diệu nhất về không và hữu. Đây là câu trả lời mà chỉ bậc đại thành tựu giả trong thực tu mới có thể đưa ra.

Đệ tử một lần nữa xin chúc mừng sinh nhật 80 tuổi của Sư Phật! Kính chúc Sư Phật ngày an lành, đêm an lành, sáu thời trong ngày đều được an lành! Nguyện Sư Phật trường thọ tự tại, trụ thế lâu dài, thường chuyển pháp luân, xin Phật trụ thế!

Cũng xin Sư Phật gia trì cho đệ tử được khỏe mạnh, thành tựu trong tu hành, viên mãn bồ đề, đời đời kiếp kiếp đều được gặp gỡ và đồng hành cùng Sư Phật, đời đời kiếp kiếp đều được lắng nghe giáo pháp của Sư Phật, và hoằng dương giáo pháp của Sư Phật mãi xa trong thế gian.

Đảnh lễ tạ ơn sự gia trì của Sư Phật! Ngu đệ tử Liên Ha kính bái. Ngày 28 tháng 5 năm 2024, São Paulo, Brazil.

(Lời nhắn của Sư Tôn Lư: Thực sự cảm thấy không an tâm khi mọi người phải vất vả nhiều như vậy vì sinh nhật của tôi! Tôi phải cảm ơn các đệ tử. Bởi vì trong cuộc đời này, các đệ tử đã cho tôi quá nhiều, tôi phải biết ơn và báo đáp, cảm ơn!)

🌟

Cảm tưởng tuổi 80 (thơ)

Bài 1: Tứ đại của ta đây Đã dùng tám mươi năm Giờ đây có thể bỏ Chẳng có gì đáng thương.

Bài 2: Tứ đại động và tĩnh Chẳng liên can đến ta Chỉ cần buông một cái Tự tại chẳng lạ gì.

Bài 3: Già bệnh là nghiệp quả Tùy duyên và tùy thuận Tự nhiên chính là đạo Thân này mượn của ai.

Bài 4: Đệ tử đi theo tôi Vượt qua núi với sông Mong cầu bay thăng tiến Trần thế chẳng màng gì.

Bài 5: Pháp ta không cô lập Một chân lý duy nhất Tham học cần tinh tấn Chư Phật hiện toàn thân.

Bài 6: Tất cả là hoa mộng Vốn không có sinh tử Giấc ngủ lớn đã tỉnh Giờ đây được tự chủ.

18. Vào pháp môn bất nhị

Tôi giảng Kinh Duy Ma Cật. Điều bất ngờ là yếu chỉ trọng tâm của bộ kinh này lại chính là "Pháp môn bất nhị", điều mà hành giả thông thường không thể ngờ tới. Ví dụ: "Phiền não tức bồ đề". "Sinh tử tức niết bàn". "Phật ma đều như một". "Xuất thế tức nhập thế". "Diệu hữu tức sắc không". Tất cả những điều này đều là chân như thật tướng, một lý chân thật, bình đẳng như như, không có phân biệt.

Do đó, các vị Bồ Tát bất khả tư nghì, khi bước vào cảnh giới tuyệt đối bình đẳng, liền đạt được giải thoát bất khả tư nghì. Tại đây, chúng ta hãy lắng nghe các vị Đại Bồ Tát giảng về "Pháp môn bất nhị": Pháp Tự Tại Bồ Tát nói: "Sinh diệt vốn là hai, nhưng các pháp vốn không sinh, đã không sinh thì làm gì có diệt? Vì vậy, thấu hiểu bất sinh bất diệt chính là pháp môn bất nhị." (Chứng vô sinh pháp nhẫn.) Đức Thủ Bồ Tát nói: "Ngã và mọi thứ của ngã là hai, nhưng khi ngộ được rằng ngã là vô ngã, là huyễn hữu, là giả hữu, đã không có ngã thì đương nhiên không có mọi thứ của ngã, đó chính là pháp môn bất nhị." Bất Quyện Bồ Tát nói: "Thủ và bất thủ là hai, nhưng khi ngộ được rằng tất cả đều là vô sở đắc. Cho nên, vô thủ vô xả, vô tác vô hành, đó chính là pháp môn bất nhị." Đức Đỉnh Bồ Tát nói: "Thanh tịnh và ô nhiễm là hai, nhưng khi ngộ được rằng thanh tịnh là không, ô nhiễm cũng là không. Do đó không tịnh không uế, đó chính là pháp môn bất nhị." Thiện Tú Bồ Tát nói: "Tâm sinh tức là động, tâm động thì thành niệm, nếu tâm không sinh, không động cũng không niệm, đó chính là pháp môn bất nhị." Bồ Tát Thiện Nhãn nói: "Mỗi một sự vật đều có tướng, hữu tướng và vô tướng, đối đãi mà thành hai. Nếu ngộ được rằng tất cả hữu tướng đều là hư huyễn, sẽ không chấp trước hữu tướng vô tướng, đó chính là pháp môn bất nhị." Diệu Tý Bồ Tát nói: "Tâm Bồ Tát và tâm Thanh Văn là hai, nhưng tâm vốn không thể tìm thấy, cho nên không có tâm Bồ Tát, cũng không có tâm Thanh Văn, đó chính là pháp môn bất nhị." Phất Sa Bồ Tát nói: "Thiện và bất thiện là hai, nếu ngộ được rằng thiện và bất thiện đều là kết quả của vọng tâm phân biệt, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thiện ác đều không, đó chính là pháp môn bất nhị." Sư Tử Bồ Tát nói: "Nghiệp tội và phúc báo là hai. Nhưng bậc giác ngộ biết rằng, nghiệp tội cũng là không, phúc báo cũng là không. Hai bên vốn không sai khác, không có người bị trói buộc, không có người được giải thoát, đó chính là pháp môn bất nhị." Sư Tử Ý Bồ Tát nói: "Hữu lậu và vô lậu là hai. Nếu đã chứng đắc các pháp, tất cả các pháp bình đẳng, hữu lậu vô lậu đều là một, đó chính là vào pháp môn bất nhị." Tịnh Giải Bồ Tát nói: "Pháp hữu vi và pháp vô vi là hai. Nhưng thực chất các pháp đều như hư không, bình đẳng một vị, đó chính là vào pháp môn bất nhị." Na La Diên Bồ Tát nói: "Xuất thế gian và nhập thế gian là hai. Nhưng bản chất của thế gian là huyễn, cũng ngang bằng với xuất thế gian, đó chính là vào pháp môn bất nhị." Thiện Ý Bồ Tát nói: "Sinh tử và niết bàn là hai. Nhưng bậc minh triết biết rằng không sinh cũng không tử, không sinh không tử tức là niết bàn. Đó chính là pháp môn bất nhị." Hiện Kiến Bồ Tát nói: "Phiền não đã hết và phiền não chưa hết là hai. Nhưng xét đến cùng, phiền não từ tâm khởi, nếu tâm vốn không, thì bản chất của hai bên không có sai khác. Đó chính là pháp môn bất nhị." Phổ Thủ Bồ Tát nói: "Ngã và vô ngã là hai, nhưng cái ngã này chỉ là sự giả hợp của tứ đại, vốn là vô ngã, như vậy là vào pháp môn bất nhị." Điện Thiên Bồ Tát nói: "Minh và vô minh là hai, nhưng thật tính của vô minh chính là minh, minh không thể nắm bắt, vô minh càng không thể nắm bắt, ngộ nhập như vậy tức là pháp môn bất nhị." Hỷ Kiến Bồ Tát nói: "Sắc và sắc không là hai, bản tính của sắc chính là không, vì vậy thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Lại nữa, thức và thức không là hai, nhưng bản tính của thức là không. Thọ tưởng hành thức có mối quan hệ tương hỗ, đó chính là vào pháp môn bất nhị." Minh Tướng Bồ Tát nói: "Hư không và địa thủy hỏa phong là hai, nhưng tứ đại đều không. Sinh ra từ hư không đến, diệt từ hư không diệt, ngộ nhập như vậy chính là pháp môn bất nhị." Diệu Ý Bồ Tát nói: "Nhãn căn và sắc trần là hai, nếu nhãn căn không bị sắc trần nhiễm trước, phiền não, mê hoặc, thì chính là một. Cho nên tỵ căn với hương trần, thiệt căn với vị trần, nhĩ căn với thanh trần, thân căn với xúc trần, ý căn với pháp trần. Lục căn lục trần, căn bản là một, đó chính là pháp môn bất nhị." Vô Tận Ý Bồ Tát nói: "Trong pháp lục độ, bố thí và hồi hướng là hai, hồi hướng là nhất thiết trí tính. Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, trí tuệ, thiền định, đều là nhất thiết trí, với hồi hướng là tương đồng, cho nên có mối quan hệ tương hỗ, đó chính là pháp môn bất nhị." Thâm Huệ Bồ Tát nói: "Không và vô tướng vô tác là hai. Nhưng không chính là vô tướng, vô tác. Nếu hiểu được không là vô tướng, vô tác, thì sẽ không khởi tâm ý phân biệt vọng tưởng, ba loại giải thoát sẽ hợp thành một giải thoát." Tịch Căn Bồ Tát nói: "Tam Bảo Phật, pháp, tăng là hai. Nhưng tăng có Phật pháp, Phật tức là pháp, pháp tức là Phật. Người thấu hiểu sâu sắc biết rằng Tam Bảo Phật, pháp, tăng đều không. Ngộ nhập được như vậy chính là pháp môn bất nhị. Đó cũng chính là tâm, Phật, chúng sinh ba thứ không khác biệt." Tâm Vô Ngại Bồ Tát nói: "Sắc thân và nhập diệt là hai, nhưng sắc thân vốn đã có tính Niết bàn của sự nhập diệt. Nếu thông đạt được thực tướng của sắc thân, sẽ biết rằng sắc thân và nhập diệt là bất nhị bất biệt, đó chính là ngộ nhập pháp môn bất nhị." Thượng Thiện Bồ Tát nói: "Thân khẩu ý thoạt nhìn thì riêng biệt, đó là tam nghiệp. Nhưng ba nghiệp này liên kết với nhau, đều không có tướng tạo tác, thân không có tướng tạo tác, khẩu không có tướng tạo tác, ý cũng không có tướng tạo tác, đó cũng chính là tất cả các pháp không có tướng tạo tác, như vậy là ngộ nhập pháp môn bất nhị." Phước Điền Bồ Tát nói: "Hành vi thiện và hành vi ác vốn là hai. Nhưng bản tính đều là không, như vậy không có thiện, cũng không có ác, quán chiếu thiện, ác, bất động như vậy chính là vào pháp môn bất nhị." Hoa Nghiêm Bồ Tát nói: "Thức và ngã là hai, nhưng thực tướng của ngã là không, vô ngã thì tự nhiên vô thức, không có ngã, cũng không có thức, đó chính là vào pháp môn bất nhị." Đức Tạng Bồ Tát nói: "Có sở đắc và vô sở đắc là hai. Nhưng thực ra, cho rằng có sở đắc cũng chính là vô sở đắc. Ví như cuộc đời, cuối cùng thì không có gì để lấy bỏ. Ngộ nhập được như vậy chính là pháp môn bất nhị." Nguyệt Thượng Bồ Tát nói: "Sáng và tối là hai. Nếu không sáng không tối thì không phải là hai. Có người nhập diệt tận định, trong định không sáng không tối, tất cả bình đẳng, đó chính là vào pháp môn bất nhị." Bảo Ấn Thủ Bồ Tát nói: "Thích Niết bàn và không thích thế gian là hai. Nhưng nếu không ham thích Niết bàn, không chán ghét thế gian thì không còn phân biệt nữa. Ví như: có trói buộc mới có giải thoát, không bị trói buộc thì đương nhiên không có giải thoát. Ngộ nhập được như vậy là pháp môn bất nhị." Châu Đỉnh Vương Bồ Tát nói: "Chính đạo và tà đạo là hai. Nhưng nếu chúng ta an trú trong chính đạo, thì căn bản không còn phân biệt chính đạo và tà đạo. Hơn nữa, buông bỏ sự phân biệt hư vọng giữa hai bên, đó chính là vào pháp môn bất nhị." Lạc Thật Bồ Tát nói: "Thật và không thật là hai. Nhưng cái gọi là chân thật, vốn không có tính thật. Chúng ta biết tất cả đều là hư ảo không thật, đã thế với chân thật, huống chi là không chân thật. Ví như tuệ nhãn thấy được, chính là vô sở kiến, mà cũng vô sở bất kiến. Nếu quán chiếu như vậy, chính là ngộ nhập pháp môn bất nhị."

🌟

Sau khi nghe những lời của chư Bồ Tát, tôi có một cảm nhận: Ta Bà này là hư ảo. Chúng sinh là hư ảo. Tất cả các tướng đều là vô tướng. Tất cả tạo tác đều là vô tác. Tất cả trói buộc cũng chính là tất cả giải thoát. Vốn dĩ tất cả đều là tuyệt đối, đây toàn là pháp môn bất nhị.

Trong Đạo gia có câu: Vô cực hóa thành thái cực, thái cực là âm dương, âm dương sinh vạn vật. Cuối cùng vẫn trở về vô cực. (Vô cực là một thật tướng ấn, tức pháp môn bất nhị.)

Nói theo con số: ○ là pháp môn bất nhị. Một là tuyệt đối. Hai, ba, bốn, năm, sáu......... Tất cả đều là hư vọng. Tôi (Lư Sư Tôn), tu học Phật đến đây, tôi vẫn quay về "tâm đồng thể". Bởi vì chỉ có "tâm đồng thể" mới có tác dụng.

19. Thỉnh Phật trụ thế

Đây là bài viết của Du Du. Du Du nói: Diêu Trì Kim Mẫu ở Chùa Tổ đã nói với Du Du: "Phải thỉnh cầu Lư Sư Tôn trụ thế thật tốt." Lại nói: "Con phải thỉnh Phật trụ thế, con phải làm cho Lư Sư Tôn hạnh phúc vui vẻ ở nhân gian."

Sau đó một thời gian, bốn chữ "thỉnh Phật trụ thế" bắt đầu thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống. Sư tỷ Trần Truyền Phương đã đăng ảnh cũ của Lư Sư Tôn lên trang Facebook của tôi, trên đó cũng viết: "Thỉnh Phật trụ thế". Chư Phật Bồ Tát ở Đài Loan Lôi Tạng Tự cũng bảo tôi: "Thỉnh Phật trụ thế". Sự thay đổi quan trọng nhất là: Phật Mẫu Mandarava xuất hiện, cuối tháng, Ngài đến tìm tôi, đi vào trong tâm tôi, trong những ngày đó, tôi đã trở nên khác. Tôi bắt đầu kiên định nghĩ rằng: "Tất cả những gì tôi có, tất cả những gì tôi làm, đều là để cúng dường 'thỉnh Phật trụ thế', phải làm cho bản thân tốt hơn, có thể giúp đỡ Lư Sư Tôn, và nhất là làm cho Lư Sư Tôn trường thọ, vui vẻ hạnh phúc."

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) đọc đoạn văn ngắn này, tôi nghĩ đến bản thân mình. Đúng vậy. Có một thời gian, tôi thật sự không muốn ở lại cõi Ta Bà này, nguyên nhân chính là: Thân tâm không khỏe. Tự thấy pháp luân đã chuyển, có thể trở về rồi! Việc cần làm đã làm! Không mắc nợ cõi người, không lưu luyến Ta Bà. Điều duy nhất tôi nghĩ đến là Sư Mẫu Thượng sư Liên Hương, bệnh nghiệp khiến bà ấy sống rất vất vả. Bà ấy vẫn chưa đi. Nếu tôi đi trước, chẳng phải quá tàn nhẫn sao! Bà ấy không thể nhìn thấy tôi nữa, chỉ còn lại người chăm sóc, làm sao tôi có thể thoải mái như vậy? Nói đi là đi.

Vì vậy, tôi vẫn quyết định ở lại. Ôi! Sư Mẫu đã phụ giúp tôi xây dựng tông phái suốt 50 năm, vất vả biết bao. Tôi có thể khóc! (Khi bà ấy ra đi trước.) Nhưng không thể để bà ấy phải khóc! (Khi tôi ra đi trước.) Tôi cũng nghĩ đến: Đa Bảo Như Lai. Đa Bảo Như Lai thành đạo, nhưng không ai hay biết. (Người đời quá si mê.) Vì không có ai "thỉnh Phật trụ thế", nên Đa Bảo Như Lai đã nhanh chóng thị tịch nhập diệt.

Khi Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề. Đức Phật đã hiểu rõ: "Thì ra là như vậy." Vì thế, sau khi Đức Phật giác ngộ, Ngài định nhập Niết bàn, không nghĩ đến việc độ sinh. May mắn thay, Đại Phạm Thiên Vương biết Đức Phật đã thành đạo, nên đã "thỉnh Phật trụ thế". Và, Đế Thích Thiên cũng đến "thỉnh Phật trụ thế". Thế là, Phật Thích Ca Mâu Ni đã ở lại thế gian thuyết pháp suốt 49 năm. Việc Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế thuyết pháp là vô cùng quý giá hiếm có (báu vật của thế gian). Nhờ vậy, chúng sinh đời này mới có thể nương theo giáo pháp của Đức Phật mà chứng đắc "chính giác". Nếu không có Phật trụ thế. Nhân loại sẽ hoang mang không định hướng, tất cả đều không nơi nương tựa, như không có mặt trời, sẽ rơi vào địa ngục tăm tối.

20. Tu hành ở thi đà lâm

Tôi nhớ: Tổ sư Mật giáo Liên Hoa Sinh Đại sĩ đã từng tu hành tại thi đà lâm ở Thiên Trúc (Ấn Độ). Ngài dùng xác chết chất thành pháp tọa. Ngài khoác vải liệm từ tử thi. Ngài ăn đồ cúng thừa nơi xác chết. Ngài dùng ba đầu lâu xâu thành xương làm quyền trượng. Tại sao lại làm như vậy? 1. Ngài tu khổ hạnh. 2. Thi đà lâm có linh khí nặng nhất. (từ trường tâm linh) 3. Thi đà lâm là nơi thể nghiệm vô thường. 4. Khiến người tinh tấn hơn. 5. Dễ thành tựu siddhi hơn.

Ngoài ra: Thượng sư Trần Kiến Dân, một hành giả yogi Mật giáo, mỗi khi đến một nơi hoằng pháp, đều phải đến thi đà lâm. 1. Ngài rải lương khô. 2. Siêu độ vong linh. 3. Cầu nguyện linh khí gia hộ. 4. Tiêu trừ một vài chướng ngại.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) cũng học tập cách tu hành của chư Tổ sư, thuở đó tôi là nhân viên đo đạc, thường xuyên đi qua thi đà lâm (nghĩa trang). Ban đêm ở nhà trọ gần nghĩa trang. Khi tu pháp thì ở giữa thi đà lâm. Sách của tôi có ghi lại quá trình tu pháp ban đêm tại nghĩa trang lớn ở Đài Nam (Lục Cước). Đã đến chùa Ma Tổ Lục Cước. Đã đến Xích Sơn Long Hồ Nham bên cạnh nghĩa trang.

Tôi không sợ thi đà lâm là có lý do: 1. Tôi hiểu phong thủy, giúp người làm âm trạch, thường vào thi đà lâm ban đêm để tiến kim. 2. Tôi là nhân viên đo đạc, đã đi khắp các nghĩa trang trong tỉnh, nên hoàn toàn không sợ mộ địa. 3. Tiện thể siêu độ. 4. Thể nghiệm sự vô thường của kiếp người. 5. Ở Seattle, Mỹ, tôi đã đến nghĩa trang Green Lake, nghĩa trang Redmond, nghĩa trang Bellevue. (Nghĩa trang ở Mỹ được chăm sóc như vườn hoa.) Nghĩa trang Rose Hills ở California. Nghĩa trang ở tiểu bang Hawaii, bên cạnh có một ngôi chùa. .............

Theo phong tục phương Tây, thường có nghĩa trang xung quanh nhà thờ, ví dụ như: Tu viện Westminster của Anh. Vương cung thánh đường Thánh Paul của Ý. Hầm mộ của Vatican. Lời vàng của tôi là: "Muốn thể nghiệm vô thường, hãy đến thi đà lâm!"

🌟

Tôi có một nữ đệ tử tên là Vũ Vũ. Cô ấy cũng tu pháp ở thi đà lâm. Cô ấy tự kể: Lần đầu tiên, tôi đến nghĩa trang quận Tín Nghĩa, tôi biết mình tuyệt đối không được sợ hãi, trên đường đi tôi niệm chú Phổ Ba Kim Cang, tôi mang theo rượu thịt, sau khi mặt trời lặn đi vào sâu trong nghĩa trang, ngồi tu một thời pháp Phổ Ba Kim Cang. Có ma tò mò hỏi tôi đến đây làm gì? Tôi nói, tôi đến để học hỏi từ các người, tôi muốn hàng phục nỗi sợ hãi, ngoài ma ra, tôi còn thấy cả chủ của thi đà lâm. Khi tu học, tôi thuận theo linh cảm, giơ chày Phổ Ba lên và nói: "Ta là Vũ Vũ, ta là Không hành mẫu." "Sư phụ của tôi là Liên Sinh Hoạt Phật, Ngài là bậc đại thành tựu chân thật. Tôi muốn thỉnh Phật trụ thế, đây là đại sự vô cùng quan trọng. Xin tất cả Không hành dũng phụ, Không hành dũng mẫu ở thi đà lâm gia hộ. Xin tất cả u minh chúng giúp đỡ. Hãy làm Hộ pháp của tôi, tiêu trừ chướng ngại. Hãy giúp đỡ, cùng nhau hộ trì chính pháp. Tương lai chúng ta cùng nhau thành tựu, cùng thành Phật đạo." Khi tôi nhập định, pháp thân của Lư Sư Tôn hợp nhất với tôi. Tôi nghe chủ thi đà lâm nói: "Từ nay về sau, ngọn núi này sẽ mãi mãi chào đón cô, cô thật sự là Không hành mẫu của Liên Sinh Hoạt Phật."

Lại nữa: Tôi đến nghĩa trang sau núi của Nhà tang lễ số 2 Đài Bắc, ban đêm, một mình đi chân trần leo lên khe núi, đối diện với lò hỏa táng để tu pháp. Không hành mẫu ở đó nói với tôi: "Chúng tôi sẽ giúp cô, cô dám đến đây, thật can đảm." Lại nữa: Tôi đến nghĩa trang Ngoại Song Khê ở Sĩ Lâm, nơi âm u và hoang vắng. Phổ Ba Kim Cang đã cứu một số vong linh bị giam cầm ở đó. Tôi dạy họ niệm chú Thượng sư, giúp họ quy y. Hóa ra: Ma mạnh hay bắt nạt ma yếu.

Lại nữa: Tôi đến núi sau của Bệnh viện Vinh Tổng Thiên Mẫu. Nghĩa trang ở đó đã được di dời, không còn chủ thi đà lâm. Nhưng có rất nhiều tiểu tinh quái. Tôi bị chúng vây quanh. May mắn thay, Phổ Ba Kim Cang đã cứu tôi. Tôi giới thiệu Lư Sư Tôn với các tinh quái, tôi nói với chúng rằng, khi Lư Sư Tôn về nước, họ phải cải tà quy chính, nhanh chóng đi quy y. Phải hộ trì chính pháp.

Lại nữa: Tôi đến núi Phương Lan, ở đó có rất nhiều ngôi mộ nhưng thiếu sự chăm sóc, cỏ dại mọc um tùm, tuy nhiên lại không có nhiều âm hồn, không khí rất yên tĩnh. Điều này khiến tôi thấy kỳ lạ. Cho đến khi tôi tu pháp. Một vị Địa Tạng Bồ Tát hiện đến, tôi mới chợt hiểu ra. Dưới chân núi có một am thờ Địa Tạng, khu vực này thuộc quyền quản lý của Địa Tạng Bồ Tát. Những âm hồn ở đây đều là tín chúng. Một số đã trở thành thị giả của Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát núi Phương Lan dạy tôi: "Phải có tâm nhu hòa, dâng hiến trọn vẹn, hoàn toàn không vì bản thân, đó chính là vô úy."

Lại nữa: Vào ngày cúng dường Không hành mẫu theo lịch Tạng, tôi đến nghĩa trang Phú Đức ở Phúc Đức Khảm, Mộc Sai. Nơi đó rất thoáng đãng, bầu không khí rất tốt, Không hành mẫu đã đi cùng tôi đến siêu thị, mua ba loại thực phẩm trắng, ba loại thực phẩm ngọt và các phẩm vật cúng dường khác, chỉ đường cho tôi đến khu vực số 20 của nghĩa trang, ở cuối con đường có một bãi đất bằng nhỏ, đó là điểm cao nhất, bốn phía sườn núi đều là mộ phần, tầm nhìn rộng mở, có thể nhìn bao quát toàn bộ Mộc Sai.

Trên bãi đất bằng nhỏ đó, các Không hành mẫu vây quanh tôi, tôi tự nhiên nói được ngôn ngữ của Không hành mẫu, mọi người đều hoan hỷ, dâng lên cúng phẩm, tôi tự nhiên hát lên bài ca của Không hành mẫu.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ cũng đến, Ngài nói: "Đây là nơi tụ hội của Không hành, con muốn đến thì cứ đến, đây là căn cứ địa tụ hội của Không hành."

Liên Sư dạy tôi: "Cúng dường lớn nhất chính là thân khẩu ý của con." Liên Sư hỏi: "Vì sao con muốn đạt được thành tựu lớn nhất?" Tôi đáp: "Con muốn dùng thành tựu lớn nhất, tận hết khả năng thỉnh Phật trụ thế, hộ trì và phụng sự Căn bản Thượng sư Lư Sư Tôn của con." Liên Sư nói: "Lành thay!" Liên Sư nói: "Con cũng là đệ tử của ta!" Tôi nói: "Con không nhớ nữa!" Tôi hỏi Liên Sư: "Tuyệt vời quá, Liên Sư tôn kính, xin hỏi làm sao để đoạn trừ phiền não và trực chứng giải thoát?" Liên Sư đáp: "Con là đệ tử thông minh, nhưng giải thoát không cần thông minh hay tác ý. Khi không còn vướng bận, không còn suy nghĩ và tạo tác, tự nhiên sẽ giải thoát. Đừng để những suy nghĩ tạo tác trở thành phiền não chấp trước." (Lư Sư Tôn ghi chú: Câu này chính là lời vàng.)

Tôi nói: "Con đã hiểu!" Liên Sư nói: "Hiểu được thì sẽ giải thoát!" Tôi khóc! Tôi hiểu ra đây mới chính là tình yêu đích thực. Liên Sư nói: "Ta ban cho con quán đảnh Phẫn Nộ Liên Sư. Con vẫn phải lấy pháp Phổ Ba và pháp Trường Thọ làm pháp tu chính, nhưng Phẫn Nộ Liên Sư sẽ là chỗ dựa của con."

Vũ Vũ từ đó không còn sợ ma. Đã vượt qua nỗi sợ hãi. Vũ Vũ có thể trực tiếp chuyển hóa "thân ánh sáng như huyễn". Hóa ra chúng sinh đều là chữ "không".

21. Cảm nhận trong thiền định | Bài viết của Khiết Khiết

Thông thường, tôi hay nghỉ phép vào cuối năm. Sau đó, tôi thường lên kế hoạch dành trọn một tuần để thiền định, nhưng những năm trước đều không thực hiện được. Thật dễ bị xao lãng trong kỳ nghỉ! Tuy nhiên, năm nay cuối cùng tôi cũng có thể dành trọn một tuần nghỉ phép để thiền định.

Tôi quyết định tập trung vào các loại thiền định sau: 1. Thiền định tình thương với trọng tâm là luân xa tim. 2. Hợp nhất với Sư Tôn. 3. Thiền chỉ.

Vì đang trong kỳ nghỉ nên tôi không giới hạn thời gian cho những lần thiền định này, cũng không lập kế hoạch bắt đầu chúng. Bất cứ khi nào cảm thấy muốn thiền định, tôi sẽ dừng việc đang làm để thiền. Quy tắc duy nhất của tôi là phải thực hành một trong ba loại thiền đã nêu trên. Tại sao lại chọn ba loại này? Đơn giản vì cảm thấy chúng tự nhiên!

Loại thiền đầu tiên về tình thương rất đơn giản: chỉ cần cảm nhận tất cả tình thương xung quanh mình, rồi nội hóa nó. Khi có thể cảm nhận được tình thương bên ngoài, tôi tập trung vào tình thương bên trong: tôi hình dung tất cả những người tôi gặp, mở rộng trái tim với họ: dù là bạn hay thù, người thân hay người lạ, không có sự phân biệt. Tôi tập trung vào tình thương thuần khiết dành cho tất cả mọi người. Khi cảm nhận được tình thương này, tôi cảm thấy một áp lực trong lồng ngực: như thể có một quả cầu năng lượng ở vùng luân xa tim, khao khát được mở rộng - như muốn thoát ra khỏi lồng ngực. Đây là một cảm giác thực tế, giống như có ai đó đang ấn vào ngực tôi vậy.

Quả cầu áp lực này còn có một số đặc điểm: nó có thể được nén lại và nó xoay theo chiều kim đồng hồ. Đối với tôi, đây là một cảm giác khá mới mẻ, nên lúc đó tôi chỉ có thể phân tích được một số chi tiết trong đó.

Dần dần, tình thương từ tôi tuôn chảy tạo thành một vòng tròn - tôi hình dung nó như một vòng tròn tỏa ánh sáng màu hồng. Vòng tròn này lớn dần, nhanh chóng bao trùm cả phòng khách của tôi. Mọi vật trong phòng khách đều được bao bọc bởi tình thương của tôi. Sau đó vòng tròn tiếp tục mở rộng, bao trùm cả tòa nhà tôi đang ở - tất cả chúng sinh trong tòa nhà này đều được bao bọc bởi tình thương của tôi. Vòng tròn cứ thế lớn dần một cách vững vàng: từ tòa nhà đến khu phố, đến thành phố, đến tiểu bang, đến quốc gia, đến lục địa, đến thế giới, đến vũ trụ. Trong thiền định này, tôi chỉ muốn cảm nhận tình thương - tình thương thuần khiết, không phân biệt, vô điều kiện và vô tận. Khi vòng tròn không còn hình dạng nữa, tôi nghỉ ngơi trong ánh sáng hồng, đắm mình trong tình thương đó thật lâu.

Dần dần, tôi cảm nhận tâm linh mình chuyển sang trạng thái thiền định thứ hai: hợp nhất với Sư Tôn.

Trong quá trình hợp nhất với Sư Tôn, tôi có thể cảm nhận ánh mắt từ ái của Người dõi theo mình. Khi thân thể tôi hòa quyện với Sư Tôn, một nỗi khát khao và tình cảm sâu đậm trào dâng. Nỗi khát khao này thật khó diễn tả: giờ đây tôi sống ở Seattle, hằng ngày đều được gặp Sư Tôn - vậy tại sao trong lúc thiền định tôi vẫn khát khao Người đến vậy? Đây là một nỗi khát khao khác, một nỗi khát khao rất cổ xưa - có lẽ điều này có nghĩa là tôi đã khát khao Sư Tôn từ rất lâu rồi - và giờ đây, chúng tôi cuối cùng cũng gặp lại nhau. Cảm giác này thường khiến tôi rơi lệ vừa buồn vừa vui trong lúc thiền định.

Sau đó, tôi chìm vào trạng thái hợp nhất sâu hơn, mọi cảm xúc bề mặt tan biến, tất cả trở nên tĩnh lặng.

Trong sự tĩnh lặng này, tâm trí trở nên tỉnh thức hơn. Giống như tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài - thường thì chúng ta chỉ nhận ra mình đã ngủ khi đã thức giấc. Cũng như trải nghiệm nâng cao nhận thức của tôi ở giai đoạn này: chỉ khi nhận thức được nâng cao trong thiền định này, tôi mới nhận ra sự tỉnh thức hàng ngày của mình còn chưa đủ. Ở giai đoạn này, cơ thể tôi tràn đầy năng lượng: tôi cảm thấy mình như một quả bóng bay chứa đầy không khí ấm áp. Da, cằm, mặt, cổ, ngực của tôi - tất cả đều cảm thấy tràn đầy hơi ấm. Tôi biết cách mô tả này có thể khiến người khác cảm thấy không thoải mái, nhưng thực tế không phải vậy. Tất cả cảm giác đều đến và đi một cách từ từ, thoải mái và tự nhiên.

Khi trạng thái tỉnh thức này nâng cao, hình ảnh của Sư Tôn dần trở nên chân thực hơn. Sau đó, một điều bất ngờ xảy ra: Sư Tôn đứng dậy và nhanh chóng bước ba bước về phía tôi! Điều này hoàn toàn nằm ngoài dự đoán, như thể Sư Tôn mà tôi hình dung đã thực sự sống động! Tôi cảm thấy kinh ngạc.

Sau khi tâm hồn tôi lắng xuống, nó tự nhiên chuyển sang giai đoạn thiền chỉ. Đối với tôi, thiền chỉ bắt đầu bằng hình ảnh một nén nhang. Tôi hình dung tất cả chi tiết và tập trung chú ý vào đối tượng này. Đây là điều cần khá nhiều luyện tập, nhưng giờ đây việc tập trung vào đối tượng này giống như co một cơ bắp vậy. Một khi đã "siết chặt", sự tập trung được thiết lập. Tôi duy trì trạng thái này cho đến khi cảm thấy phù hợp - rồi lại "siết chặt" một lần nữa, nén nhang biến mất, cùng với tất cả mọi thứ khác. Tôi có bật nhạc nền, nên tôi biết mình không ngủ, vì một phần ý thức của tôi nhận biết được thời gian trôi qua qua nhiều bài hát đang phát.

Mặc dù thông thường tôi kết thúc thiền định sau khi đạt được trạng thái tâm rỗng không, nhưng lần này cảm thấy không tự nhiên, nên tôi để nó tiếp tục. Tôi hiểu được tại sao "rỗng không" lại cuốn hút đến vậy: tôi thấy trong đó có một sự thư giãn và mãn nguyện sâu sắc mà tôi chưa từng trải nghiệm ở nơi nào khác. Khi không có gì tồn tại, thật sự vô cùng thoải mái! Không có khởi đầu, không có kết thúc - đây là một sự tĩnh lặng sâu thẳm mà người ta có thể lưu lại vô thời hạn. Mặc dù tôi muốn duy trì ở giai đoạn này, nhưng có điều gì đó đang kéo tôi tiến tới giai đoạn tiếp theo.

Khi tâm linh tôi tự nhiên trở nên rõ ràng hơn, tôi bắt đầu nhận thức lại về cơ thể mình và môi trường xung quanh. Từ từ, tôi trở về từ trạng thái rỗng không. Ngay khi tâm linh tôi trở lại trạng thái tỉnh thức hoàn toàn, nó tự nhiên bắt đầu tụng niệm tâm chú của Sư Tôn. Ở giai đoạn này, tôi nhận ra hai điều: tâm linh có ý chí riêng của nó, và tôi đang ở một nơi khác.

Ngay khi tôi bắt đầu tụng niệm tâm chú của Sư Tôn, tôi có thể nhìn thấy ánh sáng trong thiền định. Những tia sáng cầu vồng nhảy múa - tạo thành những hình dạng ngẫu nhiên - như những chấm màu khác nhau. Chúng sống động và không ngừng biến đổi. Ở giai đoạn này, tôi hiểu rằng trong trạng thái rỗng không không có pháp vị. Khi pháp vị được đưa vào, sự rỗng không tràn ngập pháp vị, và tôi có thể thấy ánh sáng tuôn chảy qua tâm linh mình.

Mặc dù trạng thái rỗng không rất thoải mái, nhưng sự thiếu vắng pháp vị thúc đẩy tôi bước vào giai đoạn tiếp theo. Tôi hiểu rằng rỗng không không phải là điều tôi đang tìm kiếm.

Khi tôi tụng niệm tâm chú của Sư Tôn, hình dạng của ánh sáng bắt đầu trở nên rõ ràng hơn, và ý thức về bản ngã của tôi lại bắt đầu tan biến. Trong trạng thái thiền định sâu, cảm giác giống như một giấc mơ - nhưng tôi vẫn có thể nghe thấy nhạc nền, và thực tế là nó vẫn đang chuyển bài. Tôi biết thời gian đang trôi qua, tôi đang thiền định, và cảm giác như đang ở trong mơ - tất cả diễn ra cùng một lúc.

Tôi thấy mình đang băng qua không khí cầu vồng. Có lúc cảm giác như đang bay, có lúc như đang bơi. Dù thế nào đi nữa, tôi đang du hành trong bầu trời cầu vồng, dùng hai tay đẩy không khí cầu vồng về phía trước. Cảm giác này không phấn khích cũng chẳng kinh ngạc: tôi chỉ có thể mô tả nó là một cảm giác tự nhiên. Tôi là một phi công tự nhiên trong không khí cầu vồng và một người bơi tự nhiên trong biển cầu vồng!

Chẳng mấy chốc, tôi đến một nơi có thể đứng được. Ở đâu vậy? Cầu vồng! Tôi chỉ có thể mô tả nó như là nhiều cầu vồng hơn nữa. Tôi nhìn thấy một hồ nước màu cầu vồng và múc một vốc nước. Khi xem xét nước, tôi thấy trong đó cũng có cầu vồng, rồi tôi uống vài ngụm. Tôi có thể cảm nhận cầu vồng bên trong cơ thể mình, chiếu sáng thân thể tôi, như thể đang thanh lọc nó.

Trong lúc trôi bồng bềnh giữa cầu vồng, giờ đây tôi có thể chọn những đám mây cầu vồng đủ dày để múc một vốc, và khi quan sát kĩ, tôi cũng thấy cầu vồng trong những đám mây mà tôi nắm được. Một cách tự nhiên, tôi đã ăn nó! Nhưng tiếc thay, nó không có vị gì đặc biệt.

Cảm giác quay trở về với thân thể tôi. Tôi có thể cảm nhận tâm linh đang quay về "chế độ bình thường". Mặc dù trong suốt quá trình tôi vẫn nghe được nhạc nền, nhưng giờ đây tôi chú ý đến nó nhiều hơn. Dần dần, tôi thấy mình đã trở về phòng khách, trở về với thực tại. Dù đã trải qua nhiều cảm giác khác nhau trong thiền định, nhưng bề ngoài dường như chẳng có gì thay đổi.

Mặc dù tôi biết thời gian đã trôi qua nhờ nhạc nền, nhưng khi nhìn đồng hồ, tôi vẫn cảm thấy sửng sốt: đã hai tiếng trôi qua kể từ khi tôi bắt đầu thiền định. Tôi không cảm thấy mệt mỏi như sau khi dành vài giờ học một môn phức tạp, nhưng cũng không cảm thấy tràn đầy năng lượng như vừa tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Một cách hơi gượng ép, tôi trở về con người cũ của mình và tiếp tục cuộc sống thường ngày.

Giống như trở về từ một chuyến du lịch - con người nhanh chóng quay lại cuộc sống cũ. Tuy nhiên, tôi biết rằng dù bề ngoài dường như chẳng có gì thay đổi, nhưng ở một mức độ nào đó mọi thứ giờ đã khác. Một khi bạn đã trải nghiệm cảm giác thực sự tỉnh thức, bạn sẽ nhận ra rằng từ trước đến nay mọi người đều sống trong trạng thái "mơ màng". Tôi mong được đào sâu hơn vào những giai đoạn này, khám phá những điều mới mẻ và chia sẻ với bạn. Tôi chỉ muốn nói rằng cảm giác "tỉnh thức" trong bài viết này khá là nghĩa đen, không phải là sự tỉnh thức thực sự mà chúng ta vẫn luôn theo đuổi trong việc tu tập suốt đời, hoặc ít nhất nó không giống như sự tỉnh thức thực sự.

🌟

Lư Sư Tôn chú giải:

Bài viết "Cảm nhận trong thiền định" này chưa có tên tác giả, tôi đặt cho tác giả một cái tên, gọi là Khiết Khiết vậy! Điều tôi muốn nói với mọi người là: Đây là thiền định có cảm nhận, không phải là không vô. Tuy nhiên, nó ở bên rìa của không vô. Bản thân tôi cũng đã từng trải qua. Có ánh sáng cầu vồng, có tĩnh lặng, có cảm giác ăn uống. Tất cả hiện tượng đều như mây trôi mộng ảo, có bay lượn, có bơi lội. Bơi trong ánh sáng. Điều quan trọng là: Cần chứng nhập hư không, trở thành hư không. Hợp nhất làm một. Lúc đó là: Không giữ không bỏ không đến đi. Không có tác ý không tự tính. Đó chính là thiền. Thiền vốn dĩ là điều không thể nói. Tôi (Lư Sư Tôn) nói ra, chưa hẳn đã nói trúng.

22. Hỏi đáp của Liên Hoa Nghi Nghi

Bài viết này là cuộc hỏi đáp giữa tôi và Liên Hoa Nghi Nghi, và đây là những câu trả lời thật của Liên Hoa Nghi Nghi. Liên Hoa Nghi Nghi có rất nhiều sự tương ứng được tiết lộ trong bài viết này.

Trong cuốn "Sự hé lộ của những giấc mơ", có một bài "Báo mộng vô cùng chuẩn xác", tôi hỏi Liên Hoa Nghi Nghi: Tôi (Lư Sư Tôn) hỏi: Mộng chẳng phải mộng. Tôi chẳng phải tôi. Cô chẳng phải cô. Họ chẳng phải họ. Tất cả chỉ là "tên giả" mà thôi! Nhớ rằng cuối cùng là "nhìn thấu tất cả". Hiểu không? Rõ không? Liên Hoa Nghi Nghi đáp: Nghi Nghi nghe Lư Sư Tôn thuyết pháp, mọi thứ trên thế gian này chỉ là nhất thời mà thôi!

Nghi Nghi có cảm nhận: Duyên vợ chồng của tôi chỉ có bảy năm, tình nghĩa phu thê đã hết. Mọi nhân duyên trên thế gian này đều có sinh có diệt. Tôi dựa vào đó: "Nhìn thấu tất cả"!

Thêm nữa: Có đồng môn hỏi: "Khi Lư Sư Tôn làm hoàng đế, cô là phi tần triều đại nào?" "Có phải cô thật sự là Lục Liên Hoa Đồng Tử không?" "Có phải cô là Phật Nhãn Phật Mẫu không?" "Có phải cô là Yeshe Tsogyal không?" "Có phải cô biết nhiều bí mật hơn không?" Tôi trả lời mọi người: Tam thế chư Phật thầy Liên Sinh, vị thầy thiện đức xin gia trì. Cho con nhớ lại việc tiền kiếp, từ nay cho đến vạn kiếp sau. Từ đây về sau, không lạc lối!

🌟

Câu chuyện tương ứng của Liên Hoa Nghi Nghi: Dòng pháp quán đảnh của Lư Sư Tôn chảy thẳng lên đỉnh đầu, từ trung mạch chảy xuống chân và toàn thân, khiến toàn thân tôi rung động. Hiện tượng này đã xảy ra nhiều lần, kéo dài năm năm, Lư Sư Tôn luôn hạ xuống gia trì cho Nghi Nghi. Sau khi hết rung động, Liên Hoa Nghi Nghi nhìn thấy ánh sáng, hoặc chữ chú tỏa sáng, hoặc vũ trụ đầy sao.

Có một lần đang nằm, Lư Sư Tôn nâng hai tay tôi lên, xoay vào trong ba vòng, xoay ra ngoài ba vòng, giống như đang đấm quyền. Sau đó, Lư Sư Tôn nâng chân trái tôi lên, gập đôi, đẩy về phía bụng, chân phải cũng vậy. Lư Sư Tôn, đây là dạy con pháp thể công? Hay là Kim cang quyền? (Lư Sư Tôn chú giải: Đây đúng là thể vị pháp Kim cang quyền. Là đưa khí đi xuống rồi nâng lên đẩy hậu môn, giữ khí này, nhờ đó nhập Tam ma địa.)

Thêm nữa: Pháp hội Bát Nhã Phật Mẫu. Trong lúc nhập thiền định ở pháp hội, đệ tử tự hóa thành Bổn tôn, tự do bay lượn trên bầu trời xanh. Bỗng nhiên thấy một chiếc thuyền lớn, xung quanh cũng có rất nhiều thuyền, cảnh tượng vô cùng hùng vĩ. Đệ tử Liên Hoa Nghi Nghi nghĩ: đây là Lư Sư Tôn đang làm siêu độ Nghìn chiếc thuyền pháp. Đệ tử đếm số thuyền, nhưng đếm mãi không hết, thuyền nhiều vô tận. Tôi nghe thấy: "Tê-ya-tha. Ôm gê-tê gê-tê pô-lô-gê-tê pô-lô-sâng-gê-tê pu-thi sô-ha." [Tadyatha. Om. Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi. Svaha.] Thần chú này, Lư Sư Tôn giải thích: "Đại trí huệ đến bỉ ngạn, tự độ độ tha, cùng đến bờ bên kia, khiến thành tựu chính giác, viên thành Phật đạo."

Thêm nữa: (Dược Sư Phật và pháp hội Hộ Ma Dược Sư Phật.) Lúc 4 giờ sáng, Liên Sư nhập mộng đệ tử, phóng quang gia trì con, đệ tử liền tỉnh giấc. Lúc 6 giờ sáng, đệ tử dùng điện thoại xem trực tiếp pháp hội của Lư Sư Tôn. Khi nhập định, thấy bò cạp của Phẫn Nộ Liên Sư, hàng nghìn hàng vạn bò cạp từ trên trời rơi xuống, cảnh tượng khiếp đảm. Sau khi xem xong, đệ tử thắc mắc, hôm nay là pháp hội Dược Sư, sao lại thấy Liên Sư mà không phải Dược Sư Phật? Về sau, Hóa ra có một hóa thân, tên là Liên Sư Dược Sư Phật hay Ô Kim Dược Sư Như Lai. Cảm tạ Liên Sư hóa ba thân.

Thêm nữa: Hôm nay là sinh nhật đệ tử, vào sáng sớm con nhìn thấy Pháp thân của Lư Sư Tôn. Sau đó, Lư Sư Tôn hợp nhất với Đại Lực Kim Cang. Rồi hợp nhất với Liên Hoa Nghi Nghi. Khiến đệ tử sinh khởi đại lạc. Thì ra Lư Sư Tôn chúc mừng con "sinh nhật vui vẻ". Thêm nữa: Con nghe thấy vài giọng nói: "Kim Mẫu nói: Liên Hoa Nghi Nghi là vị thiên nữ nào đó." "Lư Sư Tôn là một vị Thượng sư trân quý hàng thật đúng giá." "Con là Lục Liên Hoa Đồng Tử!" "Và là vị nào đó." Lư Sư Tôn nói với đệ tử: "Muốn gặp con!" "Pháp luân này đã chuyển! Lành thay!"

23. Pháp thân của tôi ở Norway

Trước tiên xin tiết lộ một bức thư từ Thích Liên Ngật ở Norway gửi đến:

Căn bản Truyền thừa Thượng sư Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật kính yêu! Nhân dịp Sư Phật 80 thánh thọ và kỷ niệm xuất bản văn tập 300, đệ tử nguyện cầu Sư Phật pháp thể an khang, trường trụ thế gian, thường chuyển pháp luân! Đệ tử xin ghi lại chút ít tâm đắc và thể nghiệm xuất gia của mình để cúng dường Sư Phật, đồng thời xin làm chứng nhân cho đại thần biến của Sư Phật.

Pháp thân ánh sáng

Tháng 10 năm ngoái khi từ biệt ở Seattle, Sư Tôn đang đi ngang qua trước mặt đệ tử bỗng dừng bước nhìn đệ tử chăm chú, rồi hỏi đơn giản khi nào đệ tử rời đi. Lúc đó đầu óc đệ tử bỗng trống rỗng, tâm cuồng loạn lập tức lắng xuống, chỉ thấy một vùng ánh sáng rộng lớn.

Từ đó trở đi, Pháp thân của Sư Tôn luôn ở bên cạnh, Pháp thân mà đệ tử thấy phần nhiều đều rực rỡ ánh sáng, chỉ có ánh sáng mà không có hình tướng, thỉnh thoảng thì như nhục thân của Sư Tôn ở thế gian mặc long bào. Ánh sáng luôn hiện diện, không chỉ thấy khi nhắm mắt mà mở mắt cũng thấy; không chỉ thấy khi tu pháp thiền định mà trong sinh hoạt hay làm việc hàng ngày cũng luôn thấy được.

Đệ tử luôn cảm nhận được Pháp thân rất sinh động và có tác dụng vô cùng tận. Khi đệ tử thành tâm cầu nguyện cho bệnh nhân, ánh sáng của Người sẽ chiếu xuống họ; lúc đệ tử buồn chán nản, Người sẽ ở bên cạnh, bao bọc đệ tử, dịu dàng vỗ về và an ủi đệ tử. Đệ tử sẽ lặng lẽ nhìn ánh sáng đó, lập tức cảm thấy phiền não tan biến. Pháp thân cũng sẽ dẫn dắt đệ tử đọc văn tập, trong mơ ban cho pháp ngữ hoặc điềm báo. Và khi đệ tử hợp nhất với Sư Phật, đệ tử cũng có thể phát huy tác dụng, dùng năng lực này để giúp đỡ chúng sinh.

Thỉnh thoảng, từ ánh sáng hiện lên hình tướng nhân gian của Sư Phật, điều khiến con không thể nào quên là ánh mắt từ bi của Người nhìn con, luôn mỉm cười với con, như thể đang nói với con rằng Người luôn ở bên cạnh con, đừng lo lắng, đừng buồn phiền. Pháp thân cũng ban cho con đủ loại linh cảm, khi đối diện với các ca bệnh nan y phức tạp trong việc khám chữa bệnh, chỉ cần con nhất tâm cầu nguyện, Người đều chỉ dạy con cách đối phó và điều trị.

Một lần nữa chứng minh rằng chỉ một ánh mắt, một cử chỉ của Sư Phật đều là gia trì vô thượng! Chỉ cần chúng ta chân thành cầu nguyện Tam Bảo căn bản, dòng pháp truyền thừa sẽ không đứt đoạn, năng lực không thể nghĩ bàn cũng sẽ sinh khởi.

Du ngoạn sông núi đất trời, dải ngân hà trên cao

Một ngày nọ, vào lúc sáng sớm, con thành tâm cầu nguyện Sư Phật, bỗng trong giây phút hoảng hốt, Sư Phật (với hình dáng như người phàm) đã dùng một chiếc thuyền pháp lớn đưa con đi du ngoạn khắp nơi trên thế giới. Chúng ta ngắm nhìn bao nhiêu là núi sông đất trời, thuyền pháp lướt vào nhiều hang động ven biển, trong mỗi hang động đều vang vọng những âm thanh tuyệt diệu do sóng biển vỗ vào tạo nên, nghe thật du dương. Khi dòng nước chảy xiết, thuyền pháp lao xuống như tàu lượn siêu tốc, chúng ta cùng hò reo, tạo thành giai điệu tuyệt vời trong hang động. Những nơi mà Sư Phật đưa con đi thăm đều là những địa điểm con chưa từng đặt chân đến, ví như Vịnh Hạ Long ở Đông Bắc Việt Nam, mãi sau này con mới tình cờ nhận ra qua những tấm ảnh trên mạng.

Sau đó, chúng ta cùng nhau ngồi thuyền pháp lên cõi trời, đi qua từng lớp cổng trời khổng lồ, như thể xuyên qua từng khung tranh một, thuyền pháp lơ lửng tiến về phía trước, con nhìn ngắm dải ngân hà lấp lánh trên trời, rực rỡ muôn màu, vô cùng hùng vĩ, lòng tràn ngập niềm hoan hỷ, không bút mực nào tả xiết.

Chuyến du ngoạn này để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng đệ tử, con chỉ chia sẻ sơ qua với mẹ mình, mãi đến khi Sư Phật đột nhiên nhắc đến trong buổi đồng tu tối ngày 8 tháng 6 năm 2024, con mới cảm thấy cần phải viết lại để làm một chứng nghiệm nhỏ về Sư Phật. Pháp thân của Sư Phật vô số, con tin rằng có rất nhiều đệ tử Chân Phật đều có những trải nghiệm tương tự.

Con chỉ là một đệ tử nhỏ bé sống ở nơi xa xôi, dù con có ở Ukraine, Nga, Berlin của Đức, hay Oslo của Norway, Sư Phật vẫn như vầng thái dương chiếu khắp đại địa, chăm sóc con không phân biệt xa gần.

Trải nghiệm xuất gia

Nửa năm qua, con dần dần thích nghi với cuộc sống xuất gia, từ sự ồn ào náo nhiệt trước đây chuyển sang trạng thái thanh đạm kiên định, tĩnh lặng thâm sâu hiện tại. Từ bên ngoài, con phá bỏ sự chấp trước với sắc tướng, việc cạo đầu hàng ngày và khoác áo Lạt-ma nhắc nhở con đừng quên tâm xuất ly, tâm bồ đề; từ bên trong, con phá bỏ ngã chấp và pháp chấp, nỗ lực duy trì ánh sáng (chính kiến) trong tâm mình. Con luôn ghi nhớ lời Sư Phật nhấn mạnh khi Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 viên tịch: "Chỉ cần trong tâm mình có ánh sáng, thế là đủ rồi".

Thời gian tu tập này giúp đệ tử liễu ngộ được chân không diệu hữu, Sư Phật chính là hiện thân Phật tính của chúng con, tất cả diệu dụng không rời đại lạc, quang minh, không tính. Tu tập Chân Phật Mật Pháp giúp con càng thêm gần gũi với Phật tính vốn có, cuối cùng trời người hợp nhất, không hai không khác.

Vì quá trình xin thị thực yêu cầu phải duy trì công việc, nên sau khi xuất gia con vẫn tiếp tục làm việc tại phòng khám địa phương. Sau khi trở thành bác sĩ trưởng của phòng khám, con còn phụ trách mọi công việc lớn nhỏ ở đây. Số lượng bệnh nhân ngày càng tăng, mọi người đều muốn đến khám với "bác sĩ nhà sư". Phòng khám nơi con phục vụ có khoảng hai, ba mươi bệnh nhân mỗi ngày. Nhiều người tò mò về trang phục xuất gia của con và thường xuyên hỏi han, điều này tạo cho con nhiều cơ hội để giới thiệu về Sư Phật, tông phái Chân Phật và chia sẻ văn tập của Người. Khi đi trên các con phố lớn nhỏ ở Oslo, con càng thu hút sự chú ý, và với tư cách là đệ tử, điều con có thể làm là trở thành cầu nối giữa Sư Phật và chúng sinh, giúp nhiều người có duyên bước lên con thuyền pháp của Sư Phật, nhìn thấy được bản lai diện mục của mình giữa những phiền não che chướng.

Dù việc tiếp tục công việc thế tục sau khi xuất gia là điều bất đắc dĩ, nhưng vô hình trung có thể giúp mọi người biết đến Sư Phật cũng là một điều may mắn. Con sống giữa hai thế giới xuất thế và nhập thế, thường tự thấy việc giữ giới của mình chưa đủ nghiêm túc, tu pháp cũng chưa đủ tinh tấn, hàng ngày vẫn còn nhiều tập khí và phiền não trỗi dậy. Con xem đây như một bài học tu hành cần phải cải thiện, để có thể hợp nhất giữa lý giải và thực chứng.

Rất rõ ràng, con nhận ra mình không còn lưu luyến cuộc sống thế tục, ngược lại cảm thấy danh lợi ngày càng xa rời con, không phải điều con muốn theo đuổi. Đệ tử hy vọng đơn xin thị thực sớm được chấp thuận, để sớm được chuyển đến Seattle, thực hiện lời nguyện xuất gia của mình, xin dâng trọn sinh mạng, tài sản, ý chí, thời gian để Căn bản Thượng sư sắp đặt và chỉ dạy.

Một lần nữa kính chúc Sư Phật sinh nhật vui vẻ! Thích Liên Ngật cúi đầu đảnh lễ.

🌟

Ta (Lư Sư Tôn) nói như sau: Thích Liên Ngật là Tiến sĩ Y khoa, hiện đang hành nghề y tại Norway, bệnh nhân của thầy gọi thầy là "vị sư bác sĩ". Thầy tướng mạo đường hoàng, phong thái tuấn tú, học thức uyên bác. Từ khi còn trẻ, đã lập chí xuất gia. Ban đầu, cha mẹ không để tâm, sau phát hiện ý chí của thầy kiên quyết, rất đỗi ngạc nhiên. Tiếp tục học hành, lấy được bằng Tiến sĩ. Cha mẹ hỏi: "Con vẫn muốn xuất gia sao?" Thầy kiên quyết trả lời: "Vâng!" Thế là, tôi cho thầy ấy xuống tóc, đặt pháp danh Thích Liên Ngật.

Tôi cho rằng, y học nhập thế và tu hành xuất thế là đồng nhất với nhau. Y dược có triết lý riêng của nó (y phương minh), trong đó kiến thức rất rộng, bao gồm y dược, tư tưởng huyền bí, thiền định, tâm lý học, v.v. Những điều này liên quan đến sinh tử, bệnh tật, y liệu, tinh thần, giải thoát. Thân xác và tinh thần của con người vốn không thể tách rời, điều này vốn là như vậy, nếu hiểu được những điều này và có tuệ giác thì mới có thể đi vào cốt lõi của y học. Tôi thấy rằng: Thích Liên Ngật có lai lịch không tầm thường, trên đỉnh đầu có một vệt sáng màu trắng. Đó là "sợi đây trời". Đó là dấu hiệu của Quang Âm Thiên thần, cho thấy thầy ấy đến từ Quang Âm Thiên. Thầy ấy có thể nhìn thấy Pháp thân của tôi, điều đó không có gì lạ! Pháp thân của tôi dẫn thầy ấy đi xem "sơn hà đại địa, tinh hà trên trời" còn dễ dàng hơn nữa! Ví dụ như: Ngắm hoa anh đào Nhật Bản. Ngắm dòng sông uốn khúc. Ngắm cực quang. Ngắm dải ngân hà trên trời. Ngắm chim công bay lượn trên cõi trời. Ngắm đế võng minh châu. Còn có thể uống nước cam lộ. ............

Có một câu tôi muốn nói với Liên Ngật và mọi người: "Trong lần luân hồi này, chúng ta có thêm cơ hội lợi ích chúng sinh, lợi ích người khác, từ tâm bi mà chứng được giác ngộ!" (lời vàng)

24. Tiểu Cương nhìn thấy Pháp thân

Trong số đệ tử của tôi có một vị Liên Hoa Tiểu Cương, người có duyên rất sâu với Long tộc. Lai lịch của vị ấy cũng từ Long tộc. Liên Hoa Tiểu Cương có thể nhìn thấy Pháp thân của tôi.

Thứ nhất: Vị ấy đã làm rất nhiều gạch pháp chú ngữ của rồng. Tức là khắc chữ chú của rồng lên những viên gạch sứ hình vuông nhỏ. Có thể cúng dường. Có thể hộ thân. Có thể hành pháp. Có một lần, vị ấy tận mắt thấy gạch pháp biến hóa, từ nhỏ thành lớn, chữ Hum trên gạch pháp biến thành Lư Sư Tôn, đầu đội vương miện, mặc đồ Lama màu đỏ, long bào màu trắng. Tay kết ấn Liên Hoa Đồng Tử. Mặt mỉm cười. Toàn thân tỏa vạn tia hào quang.

Anh ấy hỏi Lư Sư Tôn, điều này có nghĩa là mỗi viên gạch pháp đều có một vị Lư Sư Tôn ngự trong đó phải không? Lư Sư Tôn trả lời như sau: Chúng ta thường nói Pháp thân không đâu là không có, hóa thân trăm nghìn triệu, đương nhiên có thể hóa hiện trên gạch pháp. Chúng ta cũng biết tất cả chúng sinh đều là chữ Ah, chữ Ah hóa tất cả. Vì vậy, tôi từ chữ Ah hóa thân. Tôi có thể hiện hữu hóa thân của Lư Sư Tôn trong mỗi viên gạch pháp. Cho nên, mỗi viên gạch pháp đều có thể có một vị Lư Sư Tôn ngự trong đó. Nghìn nơi cầu nguyện nghìn nơi hiện. Trên biển khổ làm thuyền chở người.

Thứ hai:

Liên Hoa Tiểu Cương muốn tôi giảng "Kinh Phật Thuyết Hải Long Vương". Trong thiền định, anh ấy cảm ứng được đi vào phòng vẽ của Lư Sư Tôn, thấy trên bàn chất đầy những bức tranh cuộn đã được trang trí hoàn chỉnh. Sau đó thấy Sư Tôn cầm lên một bức mở ra, tay cầm một bên, chỉ dẫn anh ấy cầm bên kia, đối diện với một nhóm người để họ chụp ảnh. Rồi lại mở thêm một bức nữa, tổng cộng hai bức, tất cả đều có đề chữ. Một bức viết "Long Đằng Tứ Hải" (Rồng bay bốn biển). Bức kia viết "Long Hành Thiên Hạ" (Rồng đi thiên hạ). Sư Tôn cười rất vui vẻ.

Anh ấy luôn ấp ủ mong muốn được thỉnh cầu Lư Sư Tôn, trong tương lai khi nhân duyên đầy đủ, xin giảng thuyết "Kinh Phật Thuyết Hải Long Vương", lợi ích cho Long tộc, lợi ích cho Thiên Long Bát Bộ chúng.

Bình thường khi đọc kinh, anh ấy cũng phát hiện kinh điển này rất thâm sâu uyên bác, những chỗ sâu xa khó hiểu, rất mong được Lư Sư Tôn khai thị. Anh ấy hỏi Lư Sư Tôn điều này có nghĩa là Sư Tôn có ý định giảng kinh này không? Lư Sư Tôn trả lời: Giảng kinh thuyết pháp, tất cả đều nhờ vào nhân duyên, khi nhân duyên đầy đủ tự nhiên sẽ thành tựu. Giảng "Kinh Hải Long Vương", bộ kinh này rất vi diệu, kết hợp giữa sự giải thoát tinh thần và cuộc sống an lạc, đây là những giọt mưa châu báu không thể diễn tả bằng lời, cũng có nhiều ý nghĩa khiến người ta tò mò.

Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng đến long cung. Long Thụ Bồ Tát cũng đã từng đến long cung. Lư Sư Tôn cũng đã đến long cung. Tôi xin nói với mọi người: Thế gian là một giấc mộng, hiểu được điều đó chính là tự giác. Thế gian có rất nhiều khổ đau. Bởi vì con người đã quên mất sự tự giác. Trong long cung có một tảng đá mát lạnh, khi rồng ở cõi Ta Bà, chịu đủ lửa khổ, trở về bên tảng đá mát lạnh, tâm liền được mát mẻ. Ngộ được Phật pháp. Tâm liền được mát mẻ.

25. Kỳ Kỳ viết bài thơ nhỏ

Kỳ Kỳ viết cho tôi một bài thơ nhỏ, tôi đọc xong thấy dễ hiểu, có thể đọc lên du dương, mang một hương vị riêng.

Bài thơ như sau:

Múc một chén bơ Xoắn một đoạn dây Đốt một que diêm Thắp một ngọn đèn

Là ngọn đèn của Thầy Trong tim con Ngày đêm giữ gìn không để tắt Nguyện dùng làm đốm lửa Thắp nghìn đèn muôn đời Soi sáng vĩnh hằng Nguyện nghìn vạn đệ tử Đồng tâm cùng con Nương theo truyền thừa pháp giáo Đem đèn tâm Từng ngọn thắp sáng Một ngọn đèn là một lời nguyện Trong mỗi lời nguyện Đều có lời thề

Thỉnh Phật tại thế Thỉnh chuyển pháp luân Phụng sự Thầy lợi sinh Năm năm tháng tháng.

Kỳ Kỳ nói: Từ hữu hạn đến vô hạn của không, những ngày tháng về sau, cần phải truyền đèn duy trì ngọn lửa, tất cả đều là những chương hồi của cuộc đời. Chúc mừng sinh nhật 80 tuổi, cùng với Thầy.

26. Bài hát "Tạm biệt" của Trương Chấn Nhạc

Kỳ Kỳ nói: Ca khúc "Tạm biệt" do Trương Chấn Nhạc trình bày, ca từ gốc giống như một bài ca chia ly. Mang ý nghĩa mỗi người một phương, không quay đầu nhìn lại.

Kỳ Kỳ và tôi, sau khi suy nghĩ, đã sửa lại bài hát "Tạm biệt" một chút, biến nó thành một lời "Hẹn gặp lại" đích thực. Nhất định phải "gặp lại". Kiên định phải "gặp lại". Chia xa tạm thời, chính là để "gặp lại" trong tương lai, và không bao giờ chia ly nữa. Nguyện đời đời kiếp kiếp, không bao giờ chia lìa.

🌟

Lời bài hát được sửa lại như sau:

Em muốn nói với anh một lời Nói với anh một lời tạm biệt Vì có lẽ mắt em không còn thấy anh nữa Ngày mai em phải ra đi Rời xa nơi quen thuộc và anh Phải chia ly, nước mắt tự nhiên rơi Em sẽ khắc sâu gương mặt anh Em sẽ trân quý nỗi nhớ nhau Những khoảnh khắc bên nhau trong tim em Mãi mãi không phai mờ Trong tim em hứa với anh Nhất định sẽ trở về Vì anh Cố gắng bước tiếp con đường.

(Lư Sư Tôn ghi chú: Bài ca chia ly quá buồn, lòng tan nát cả. Tôi cũng nghĩ, hãy để các đệ tử có một tâm nguyện "gặp lại", chúng ta chưa từng xa cách.)

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) cũng muốn viết hai bài thơ về "Tái ngộ", vì tôi cảm thấy, "Tái ngộ" rất cảm động.

Viết tặng Hoàng Kim Hùng:

Khó quên kỷ niệm xưa Tiểu học bạn giúp đỡ Hộp cơm rất phong phú Sưởi ấm trái tim nhỏ Nhớ những đêm tại nhà Chuyện trò đến tận sáng Giờ bạn đã xa rồi Gặp lại mãi mịt mù.

Ghi chú: Hoàng Kim Hùng là người bạn thân nhất của tôi thời tiểu học, nhà bạn giàu, nhà tôi nghèo. Mỗi lần bạn mang theo hai hộp cơm, một hộp cho tôi, một hộp cho bạn ấy. Tôi thường đến nhà bạn ngủ lại, hai đứa tâm sự, làm bài tập cùng nhau. Khi tôi từ Mỹ trở về tìm bạn thì bạn đã qua đời, khiến lòng buồn bã không nguôi.

Viết tặng Trang Chính Hòa:

Hai ta cùng biên tập Tờ Hùng Công từng kỳ Cùng nghe mưa Tây Bắc Hóa thành lời thơ ca Tốt nghiệp thăm nhau hoài Suốt đời mê văn nghệ Xa nhớ Đài Loan xưa Về chẳng còn gặp bạn.

Ghi chú: Trang Chính Hòa là bạn thân của tôi ở trường cấp 3 Cao Hùng, cùng biên tập tạp chí "Thanh Niên Hùng Công". Không chỉ là bạn văn chương, mà còn là tri kỷ. Chúng tôi thường trò chuyện về văn nghệ. Sau khi tốt nghiệp, anh ấy hay đến thăm nhà tôi. Sau đó, tôi sang Mỹ.

Lần đầu tiên tôi về Đài Loan tìm anh ấy, người ta nói anh đã mất vì "tai nạn leo núi", lòng tôi chợt tối sầm. Tạm biệt! Bạn hiền!

27. Trời ban bảo bối huyền bí

Tôi đã đọc qua "Sử ký trụ gian" của Tây Tạng. Trong đó ghi chép một truyền thuyết cổ xưa, kể về "bảo bối huyền bí" từ trời rơi xuống. Tôi rất tò mò về điều này. Câu chuyện như sau: Vua Tây Tạng đời thứ 28 Lha Thothori Nyantsan đang ở trong Yumbu Lha Khang. Ngài nghe thấy âm thanh kỳ diệu vang lên từ không trung. Rồi lại thấy mây lành bay lên. Trong khoảnh khắc, từ đám mây lành có một luồng ánh sáng ngũ sắc chiếu thẳng vào ngực mình. Một chiếc hộp báu được khảm bằng châu báu ngũ sắc, bất ngờ rơi xuống trước ngực vua Lha Thothori Nyantsan. Nhà vua mở hộp báu ra. Bên trong đựng một tòa bảo tháp pha lê bốn tầng và nhiều cuốn sách bằng vàng được viết bằng bột lưu ly. (Khi đó Tây Tạng chưa có chữ viết.)

Nhà vua tin rằng đây nhất định là bảo vật hiếm có trên đời, và vua Lha Thothori Nyantsan đã thờ cúng "bảo vật huyền bí" này. Mãi đến thời vua Songtsen Gampo, đại thần Thonmi Sambhota đã sang Ấn Độ học chữ viết, đây là khởi đầu của văn tự Tây Tạng. Khi mở cuốn sách ra, mới biết đó là bốn bộ kinh Phật: 1. Kinh Bảo Khám. 2. Kinh Danh Hiệu Chư Phật Bồ Tát Bhomala. 3. Kinh Danh Hiệu Chư Phật Bồ Tát Naga. 4. Kinh Thập Thiện Pháp. Đó chính là lai lịch của "bảo vật huyền bí" từ trời ban xuống.

🌟

Songtsen Gampo (hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát) dựa theo Thập Thiện Pháp. Giáo hóa người Tạng: Không sát sinh. Không trộm cắp. Không tà dâm. Không nói dối. Không nói hai lưỡi. Không ác khẩu. Không nói lời phù phiếm. Không tham, không sân, không tà kiến.

Thêm vào đó: 1. Kính tin Tam Bảo. 2. Cầu tu chính pháp. 3. Báo đền ơn cha mẹ. 4. Tôn trọng người có đức. 5. Kính già trọng hiền. 6. Giúp đỡ xóm làng. 7. Nói thẳng thận trọng. 8. Nghĩa sâu với bạn bè. 9. Học tập người trên. 10. Ăn uống có chừng mực. 11. Ghi nhớ ân xưa. 12. Trả nợ đúng hạn, cân đong không gian dối. 13. Thận trọng tránh ganh tị. 14. Không nghe tà thuyết, phụng hành chính giáo. 15. Ôn hòa ít lời. 16. Gánh vác trọng trách, độ lượng khoan dung. Nhờ đó, người Tạng được giáo hóa.

Cá nhân tôi thấy rằng vua Tây Tạng Songtsen Gampo này, có thể ban hành Thập Thiện và mười sáu quy phạm, thật là vĩ đại.

🌟

Thơ tôi ngợi ca Songtsen Gampo: Vua Tạng phong cách nhã Đại trí cõi Ta Bà Một mảnh đất tâm lành Danh tiếng khắp bốn phương

Và: Quan Âm đến hóa thân Trên đầu là Di Đà Đại nhật chiếu khắp nơi Vùng tuyết sinh Hoạt Phật

(Lư Sư Tôn ghi chú: Songtsen Gampo cưới công chúa Xích Tôn của Nepal, rước tượng Phật đẳng thân tám tuổi. Cưới công chúa Văn Thành nhà Đường, rước tượng Phật đẳng thân mười hai tuổi. Xây dựng chùa Đại Chiêu [Jokhang] và Tiểu Chiêu [Ramoche]. Từ đó Phật giáo Tây Tạng phát triển rực rỡ.)

28. Bút ký Song Liên Cảnh Giới

Cầu Vồng Lôi Tạng Tự (Cầu Vồng Sơn Trang) đã xây dựng Song Liên Cảnh Giới, là một tòa linh cốt tháp hùng vĩ. Việc xây tháp do Thượng sư Liên Cầm và giáo thọ sư Liên Anh phụ trách. Trong quá trình xây tháp xuất hiện nhiều điềm lành: Khi đào đất, đất hiện năm màu. Xuất hiện ánh cầu vồng. Có đàn chim hót vang. Trên trời cũng hiện cầu vồng, liên tục xuất hiện. Nơi đó tỏa hương thơm ngát. Vầng hào quang Đại Nhật. Xuất hiện điềm lành chư thần gia trì. ............. (Địa điểm này chính là nơi khi Lư Sư Tôn xây dựng Cầu Vồng Sơn Trang đã nhận ra "thất tinh lạc địa", một nơi có địa lý huyệt vỏ sò đặc biệt linh thiêng.)

Nghĩa là: Cửu Thiên Huyền Nữ Hoàng Thạch Công, Âm dương chỉ cần chuyển vận thông; Nếu ai thấu tỏ âm dương pháp, Lo gì thiên địa chẳng tương phùng.

Tôi nói: Nếu có người đưa tổ tiên của mình vào an nghỉ tại Song Liên Cảnh Giới, tổ tiên sẽ được siêu sinh, con cháu đời sau cũng được gia trì phúc, lộc, thọ, thành tựu phi phàm.

🌟

Bức thư của Liên Hoa Hiểu Quang đã chứng minh tất cả. Trong thư anh ấy viết: Khi đệ tử mang tro cốt của cha mẹ vào tháp tại Song Liên Cảnh Giới ở Cầu Vồng Lôi Tạng Tự. Đã chứng kiến một số cảnh tượng kỳ diệu, xin đặc biệt báo cáo lên Lư Sư Tôn. Trong lúc Thượng sư và pháp sư tụng niệm nghi quỹ nhập tháp, đệ tử bỗng thấy Đại Lực Kim Cang xuất hiện trên không trung, giơ tay ném bình tro cốt của cha mẹ lên không. Rồi thấy bình tro cốt của mẹ biến thành hoa sen màu hồng. Trên đóa sen có một người ngồi. Bình tro cốt của cha biến thành hoa sen màu xanh, trên đóa sen có một người ngồi. Hai đóa sen trên không trung hóa thành hai vệt hào quang, bay vút lên cao rồi nhanh chóng biến mất. Đệ tử chứng kiến cảnh tượng đó thật rúng động, Song Liên Cảnh Giới quả thật thù thắng vô cùng.

Trong lúc chư tăng đang hồi hướng, trước mặt đệ tử hiện ra một gương mặt hoan hỷ, đầu đội mũ quan, để ria mép hình chữ bát, nhìn kĩ chính là cha. Cha đã thành thần! Đệ tử lập tức nhớ lại lời Lư Sư Tôn đã nói, khi tro cốt tổ tiên được đặt vào Song Liên Cảnh Giới, nếu không vãng sinh tịnh thổ thì ít nhất cũng được phong thần. Có thể thấy lời Lư Sư Tôn nói không sai. Kính xin Lư Sư Tôn ấn chứng. Liên Hoa Hiểu Quang đảnh lễ.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) làm thơ ấn chứng:

Cần biết đời người Hư ảo tựa mộng Hóa thành tro cốt Vạn pháp đều không Song Liên Cảnh Giới Là cõi thù thắng Chư Phật hộ trì Đất thiêng thanh tịnh Vừa vào đã cùng Bay lên trời cao Một đến cõi Phật Một được ấn quan.

29. Phương Phương viết về tình yêu

Thầy Lư thân yêu: Trên con đường này, thầy đi đâu, con cũng muốn đi đó. Sách của thầy, Tranh của thầy, Pháp của thầy, Tất cả về thầy, Con đều say mê, con luôn đắm chìm trong đó, đánh mất chính mình, cứ đi đi lại lại mãi. Mỗi lần gặp gỡ, là mỗi lần không nỡ chia xa, mong chờ từng lần được gặp, được nhìn thầy.

Thầy Lư thân yêu: Con là người nhặt lúa rơi, nhặt từng khoảnh khắc được đón thầy, từng buổi ký tặng sách, từng buổi pháp hội, từng lần được thầy sờ đầu gia trì, từng lần tình cờ gặp gỡ, từng bữa ăn cơm. Con muốn thưa với thầy, điều con mong mỏi là được "nhìn nhau". Đôi mắt con chỉ có sáu chữ, sáu chữ ấy là: "Thầy khỏe không? Con yêu lắm." Nỗi nhớ thầy của con hoàn toàn khác với người khác, con nhớ thầy một cách đặc biệt, yêu thầy thấu xương, mà thấu xương vẫn chưa đủ, từng tế bào đều chứa đựng tình yêu của con. Tế bào của con. Tế bào của thầy. Hoàn toàn không có sự phân biệt, đó chính là tình yêu này. Phun lửa rồi! Phun nước rồi! Đó là tình yêu như núi lửa phun trào, như động đất lớn, như lũ lụt, như bão tố. Con muốn trọn đời bên nhau. Cũng muốn từng được có nhau. Dù không nhất định được ở bên nhau, nhưng trái tim vẫn gắn kết với nhau. Con khẳng định chắc chắn rằng: Ở kiếp sau, chỉ cần một ánh nhìn, con sẽ nhận ra thầy ngay!

Thầy Lư thân yêu: Chúc thầy sinh nhật vui vẻ. Phương Phương chắp tay.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) trả lời Phương Phương: Phương Phương: Trong thế giới của ta, con là một người rất đặc biệt, ta biết lời hứa của ta với con. Lời hứa này, trong hư không, trong thời gian, vĩnh viễn không phai mờ hay tắt lịm. Tâm bồ đề, tâm từ bi của ta sẽ tồn tại vô tận vô cùng. Con chỉ cần nhớ nghĩ. Ta sẽ nhớ nghĩ. Con đã hòa vào ta, ta luôn ở quanh con từng giây từng phút, trong tâm con, trong từng tế bào của con. Ta chưa bao giờ rời xa con. Nỗi nhớ của con cũng chính là nỗi nhớ của ta, Phương Phương của ta ơi, chỉ cần con nhớ nghĩ, ta sẽ nhớ nghĩ.

Ta sẽ hóa thành mặt trời, dùng ánh dương chiếu khắp nơi. Ta sẽ hóa thành ánh trăng, dùng ánh trăng che chở con. Ta sẽ là ngôi sao, lấp lánh trên thân con. Dù trời đất có phai tàn. Dù bốn mùa đổi thay. Từ kiếp này đến vô số kiếp sau. Ta sẽ luôn ở bên con. Hãy trì tụng tâm chú của ta - Lư Sư Tôn! Quán tưởng hình tượng của ta, chỉ cần nhất tâm. Ta nhất định sẽ hiện thân. Bởi pháp thân của ta có đến trăm nghìn triệu. Ta sẽ viên mãn cho con. Và cũng sẽ viên mãn cho tất cả chúng sinh.

Ta biết nhà của con ở tận bên kia biển khơi, nơi một góc nhỏ bé, tuy xa xôi và hẻo lánh, nhưng ta vẫn có thể đến được, bởi mọi nơi chốn đều là địa phận của ta, vì giữa ta và con không có sự phân biệt. Ta sẽ ở tại Ma Ha Song Liên Trì. Con cũng sẽ ở tại Ma Ha Song Liên Trì. Khi ấy sẽ là đại hỷ lạc. Hơn nữa, Vĩnh hằng. Lư Sư Tôn chắp tay.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) tặng cho con bài thơ tản văn "Lời trong mộng":

Sát-na xuyên suốt ba đời như một Tất cả tất cả đã từng Bóng hình của con Trên biển tâm lấp lánh sóng Dường như đã tới lối ra Lại dường như còn ở lối vào Đó là con đường dài vô tận Không phân biệt Hôm qua hôm nay ngày mai Tràn ngập trong tâm khảm Như thác nước tuôn trào Vĩnh viễn không khô cạn Không ngừng nghỉ Vĩnh viễn không hoại Không cắt xén Hoằng nguyện của ta là ngọn đèn vô tận Nỗi nhớ là ánh sáng Mịt mùng dày đặc Đó là đài sen của đế võng minh châu.

30. Điều thấy nghe ở pháp hội Diêu Trì Kim Mẫu

Tôi xin chia sẻ những gì bà Lý Mẫn đã thấy:

Đảnh lễ Căn bản Thượng sư Liên Sinh Hoạt Phật tôn quý! Kính thưa Sư Tôn tôn quý!

Con vô cùng cảm ơn Sư Tôn gia trì cho đệ tử và gia đình có phước báu được cùng nhau đến Seattle đoàn tụ với Sư Phật, tham dự đại pháp hội Diêu Trì Kim Mẫu Hộ Ma (chúc mừng Sư Tôn 80 thánh đản).

Trong pháp hội này, đệ tử cũng thấy được như Sư Tôn khai thị về tiệc thọ được tổ chức trên hư không, ngoài việc đệ tử thấy rất nhiều chư Phật Bồ Tát dẫn theo quyến thuộc và thị giả của mình, còn có rất nhiều chư Phật Mẫu, Không Hành Mẫu cùng đến dự tiệc chúc thọ.

Trong pháp hội trang nghiêm, Bạch Tản Cái Phật Mẫu giáng lâm, chiếc tán lọng treo lơ lửng giữa hư không, bên dưới tán lọng có rất nhiều tiên trời giáng xuống, cùng với những đóa hoa tươi rực rỡ múa dâng cúng, đệ tử không biết dùng lời nào để diễn tả cảnh tượng trang nghiêm hùng vĩ và ánh hào quang kỳ diệu tỏa khắp hư không như thế.

Tiếp đó đệ tử cảm nhận được một nguồn lực và ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, đến từ Kim Mẫu và tất cả chư Phật Mẫu, Không Hành Mẫu, tiên trời, quyến thuộc, cùng rất nhiều Không Hành Mẫu từ nhân gian và rất nhiều Bổn tôn hóa thân của các đệ tử theo Sư Tôn giáng phàm. Họ tụ hội cùng nhau phát nguyện cầu xin Sư Tôn trường thọ tại thế, tập trung toàn bộ năng lượng và ánh sáng để cầu thọ cho Sư Phật. Thật là một khung cảnh vô cùng xúc động.

Viết thư này ngoài việc muốn thưa với Sư Tôn những gì đệ tử đã thấy hôm đó, quan trọng nhất là đệ tử muốn thưa với Sư Tôn rằng dù ở trên trời hay ở nhân gian hiện tại, đệ tử đều một lòng cầu nguyện Sư Tôn pháp thể an khang, trường thọ vô lượng, thường trụ thế gian.

Đệ tử Lý Mẫn đảnh lễ Sư Tôn kính yêu, A Di Đà Phật!

🌟

Ngoài Lý Mẫn, còn có Hiểu Quang cũng nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng. Thượng sư Liên Hùng nhìn thấy: Đàn thành của chư Phật Bồ Tát. Đàn thành nằm trong vòng hào quang bát nhã. Hiểu Quang nghe được cuộc đối thoại giữa tôi và Diêu Trì Kim Mẫu: Diêu Trì Kim Mẫu hỏi: "Sinh nhật của con, chúng ta đều đến, con có vui không?" Tôi đáp: "Chúng sinh vui, con vui." Diêu Trì Kim Mẫu hỏi: "Con thương chúng sinh không?" Tôi đáp: "Con thương chúng sinh hơn cả bản thân con." Tôi nói: "Con đến đây là để cứu độ chúng sinh!" Diêu Trì Kim Mẫu hỏi: "Khổ không?" Tôi đáp: "Khổ chính là vui." (Lúc này, cõi trời hoan hô.)

Tôi (Lư Sư Tôn) thấy: Thiên nữ áo trắng, thiên nữ áo đỏ, thiên nữ áo vàng, thiên nữ áo xanh lục, thiên nữ áo xanh lam. Mã Cát Lạp Tôn. Hắc Phẫn Nộ Mẫu. Kurukulle Phật Mẫu, Dorje Pamu, Kim Cang Du Già Mẫu. Năm vị Phật Mẫu của Liên Hoa Sinh: Yeshe Tsogyal, Mandarava, Sakyadewa, Kala Siddhi, Tashi. Saraswati, 12 Cát Tường Thiên, 5 Trường Thọ Nữ, Durga, Kali, Uma. Mười vạn Không Hành Mẫu của cõi Áo Minh Thiên. Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh của Diêu Trì Kim Mẫu. Các con gái của Diêu Trì Kim Mẫu: Hoa Lâm, Mai Lan, Diêu Cơ, Ngọc Chi... Thanh Loan, Thiếu Loan, Ấu Loan. Mười vạn Không Hành Mẫu của cõi Áo Minh Thiên. Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Hộ Pháp, Không Hành, chư thiên chúng. Bát Đại Kim Cang. Ngũ Đại Minh Vương. Tứ Đại Thiên Vương. Đó là điều thấy nghe trong đại pháp hội Hộ Ma Diêu Trì Kim Mẫu vào ngày 23 tháng 6 năm 2024 (ngày 18 tháng 5 âm lịch). (Thật là thù thắng!)

31. Lời vàng lấp lánh

Đây là sáng tác chung của Lượng Hựu và Lư Sư Tôn. Tôi cho rằng đây là "Lời vàng lấp lánh".

Ban đầu do Lượng Hựu viết. Tôi thêm vào chú giải. Vì vậy đây là sáng tác chung. Giữa tôi và cô ấy. Thực ra cũng không phân biệt "của bạn" hay "của tôi". Đây là "Lời mở đầu".

Bài 1: Mỗi một khoảnh khắc hiện tại Dù thời gian đã trôi qua rất lâu rất lâu Vẫn là vẻ đẹp trong tim của đôi ta Không cần chụp ảnh lưu niệm Không cần kỹ thuật chỉnh sửa Không cần trang điểm Con người tự nhiên của đôi ta, tất cả đều là sự sắp đặt hoàn hảo. Và trái tim rung động vô hạn. Thật ra đó chính là tình cảm chân thành.

Bài 2: Chưa từng nghĩ về tuổi tác của Lư Sư Tôn. Tôi cũng vậy, chưa từng nghĩ về tuổi tác của con. Con nói: "Đó chỉ là ký hiệu." Ta không cần giải thích, con cũng không cần giải thích. Chúng ta đều biết mọi thứ ở cõi người đều là huyễn ảo. Tất cả: Đẹp xấu, tuổi tác, cao thấp, béo gầy, và thành trụ hoại không Đều chỉ là tướng bề ngoài. Đức Phật dạy: "Tất cả các tướng đều là hư vọng." Đó chính là vô minh tận!

Bài 3: Chúng ta trân quý lẫn nhau, trân quý những ý tưởng sáng tạo và sức sáng tác trong từng nét bút. Sống chính là một trò chơi! Duyên lành. Hoan hỷ. Hạnh phúc. Cộng thêm sự quan tâm lẫn nhau. Tất cả đều là những món quà vô giá. So với những lời nói suông, Yêu thầy, Thương thầy, Quý thầy, Còn ý nghĩa hơn nhiều! Những hạt giống được gieo xuống này, tất cả đều là sức sống, sức sống trường tồn bất tận.

Bài 4: Bài thơ con viết: "Tiếng gọi của Thầy". Trong giấc mộng đêm suốt hai tuần qua, Con thường xuyên cảm nhận được giọng nói quen thuộc gọi tên con, đó là giọng nói con yêu thích nhất, Giọng nói của Thầy. Không phải là mơ đâu, mà là âm vang từ hư không. Tiếng gọi ấy, như tín hiệu điện tử, nhưng không cần dùng tai mắt để nghe nhìn mà trực tiếp đi vào tâm thức, thật rõ ràng chân thực! Con xin thưa với Thầy một điều bí mật, Trong kiếp này, có ba người gọi tên con nghe thật đặc biệt: Một người là cha của con đời này, Một người là thầy hướng dẫn luận văn, Và một người là Thầy! Thầy gọi tên con được không ạ? Để thêm chút niềm vui và hơi ấm cho đứa con không cha không mẹ trong cõi đời này Được không ạ? Con sẽ đáp lại Thầy bằng nụ cười ngọt ngào. Con cảm ơn Thầy!

🌟

Tôi đáp lại bằng một bài thơ tản văn, tôi (Lư Sư Tôn), viết về "Vô danh". Từ khi chào đời, Tôi biết mình chính là "vô danh". Sau này để khai sinh, Mới có tên gọi là Lư Thắng Ngạn. Khi viết văn, bút danh của tôi rất đơn giản: Thánh Yến. (đồng âm) Thượng Điền. (phong vị Nhật Bản) Xuyên Lưu. (ý văn lưu loát) Nguyệt Văn. (lấy bộ Nguyệt và bộ Văn trong chữ Thắng Ngạn) .............

Khi học Phật: Huệ Ngạn, Đạo Ngạn............. Đệ tử gọi tôi: Sư Phật, Sư Tôn, Lư Sư Tôn, Thánh Tôn. Rồi còn có: Hoa Quang Tự Tại Phật, Hoa Quang Phật. Liên Hoa Đồng Tử, Liên Sinh, Hóa Sinh Đồng Tử, Hạng Quang Đồng Tử, Liên Sinh Pháp Vương, Liên Sinh Thượng Sư. Gọi đến cuối cùng, tôi chóng mặt luôn! Tôi quên mất mình là ai? "Này! Này! Này!" Tôi quay đầu lại! Người gọi tôi là "người lạ". Cuối cùng tôi hiểu ra, hóa ra tôi vẫn là "vô danh". Còn về việc bạn gọi tôi là gì? Tôi đều chấp nhận.

Bài 5: Con đề cập đến "tình yêu đích thực". Khi nói hai chữ này, con đã khóc đến ướt cả một mảng thảm. Con có những kỷ niệm của con, Ta có những kỷ niệm của ta, Kỷ niệm của ta là, những người từng nói với ta về "tình yêu đích thực", cuối cùng đều trở thành "tình yêu sai lầm". Thật đau đớn làm sao! Yêu đến chết đi sống lại! Cuối cùng là căm hận đến nghiến răng! Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt, toàn là chuyện vớ vẩn. Nhưng ta thích mấy câu của con: Giữ lời nói trong tim. Cảm thấy hạnh phúc ngọt ngào. Ta mong muốn có cảm giác này, mãi mãi về sau, A-men! Ngoài ra, Hai câu ta ngưỡng mộ nhất là: "Yêu đến tận cùng, không oán hận!" "Tình là chi? Khiến người ta sống chết đều hứa với nhau!" Đó mới chính là "tình yêu đích thực"!

Bài 6: Con nói: Trong cõi nhân gian, có quá nhiều lo âu, phiền não, bất mãn, không như ý, chướng ngại, bệnh thân, bệnh tâm... Dường như là vô thường, mà cũng dường như là thường tình. Làm sao để giải quyết? Hãy giao cho Lư Sư Tôn tiêu tai giải nạn! Lư Sư Tôn là chỗ nương tựa của chúng sinh. Ta nói: Ta phó thác bản thân cho Bổn tôn. Đương nhiên ta cũng giao phó nỗi khổ của chúng sinh cho Bổn tôn. Nhiều người đều biết, Bổn tôn của ta là: Diêu Trì Kim Mẫu. A Di Đà Phật. Địa Tạng Bồ Tát. Đôi khi, ta phó thác mình cho "không". Phó thác mình cho "không", có người rất khó hiểu?

Ta sẽ nói cho con một điều bí mật: Sau khi ta buông bỏ bản thân, ta không còn là ta, con không còn là con, người không còn là người, chúng sinh không còn là chúng sinh. Tất cả mọi thứ đều trở thành hư vô. Bao gồm những điều con nói về lo lắng, phiền não, chướng ngại, không thuận, bất an, bệnh thân, bệnh tâm - tất cả đều quy về "không". Giống như ngọn lửa thiêu rụi thành tro tàn, một cơn gió lớn thổi qua, cuốn bay tro tàn không còn dấu vết.

Đó chính là ba loại giải thoát: "Không" giải thoát. "Vô tướng" giải thoát. "Vô tác" giải thoát.

Bài 7: Con đề cập đến giấc mơ. Trong mơ, chúng ta ngồi tâm tình, chia sẻ những bí mật riêng. Trong mơ, cánh tay ta dài hàng trăm thước, xoa đầu con, thật lâu thật lâu. Trong mơ, ta ném một ngôi sao sáng rực, bay lượn trên không trung, rồi dừng lại trên tay con, trong chớp mắt hóa thành chày kim cang thập tự. Trong mơ, con nói ta thật dịu dàng! Trong mơ, có nhiều câu chuyện tiền kiếp. Trong mơ, đối thoại cùng chư Phật Bồ Tát. Trong mơ, có thể thấy trước tương lai. Ta (Lư Sư Tôn) đã viết một bài "Lời mộng", ta đọc cho con nghe: Mộng mị mơ hồ chẳng căn cứ, Vốn dĩ không hay lối tới lui. Đèn tàn hoa rụng trong đêm vắng, Chẳng biết đêm dài ẩn chốn đâu. Ngày ngày gối mộng triền miên mãi, Như kính vạn hoa chuyện nối dài Đến khi bình minh vừa rạng sáng, Mới hay tất cả chỉ uổng công.

Và, bài "Mộng thơ" mà ta yêu thích nhất:

Biết đời như mộng vô sở cầu, Vô sở cầu lòng tĩnh lặng không. Vẫn tưởng trong mơ tùy mộng cảnh, Thành tựu công đức tựa hà sa.

Và, bài "Thơ kiến đạo":

Trong mộng rõ ràng có lục đạo, Tỉnh rồi tam giới thảy đều không. ("Thơ kiến đạo" của đại sư Vĩnh Gia)

Về giấc mộng, ta chỉ có sáu chữ: "Mộng mộng mộng, không không không." "Ta không chấp trước khi tỉnh thức, với giấc mộng, càng không chấp trước, với tất cả mọi thứ, hoàn toàn không chấp trước."

Bài 8: Con nói: Lư Sư Tôn, từ nhỏ đến nay, bất kể thầy cô ở độ tuổi nào, dù biết nhiều hay biết ít, dù hiểu sâu hay hiểu nông. Những người đã chân thành dạy dỗ con, con đều tự nhiên hết lòng kính yêu. Và tương tự như vậy, con cũng mang tấm lòng này để giúp đỡ người khác. Lư Sư Tôn, Thầy thật đặc biệt trong tim con. (Lư Sư Tôn tôi đối với điều này không có ý kiến gì.)

32. Cuộc sống thường ngày của Phật tử

Có đệ tử hỏi tôi: "Phật tử quy y Tam Bảo, trong cuộc sống hằng ngày, Lư Sư Tôn có ý kiến gì ạ?" Nghe xong, tôi thấy đây là câu hỏi bình thường, nhưng cũng không dễ trả lời.

Tôi suy nghĩ một lúc, rồi trả lời như sau: Chúng ta học Phật là để thành Phật, trong sinh hoạt hằng ngày, phải ghi nhớ giới luật của Phật pháp. Làm việc phải quang minh chính đại, đối với người khác phải khoan dung độ lượng. Phải tùy thuận chúng sinh, khi chúng sinh có chỉ trích, chúng ta phải biết tiếp thu điều thiện. Tu pháp phải tinh tấn, không được buông thả, tuyệt đối không được lười biếng. Quản lý tài chính có chừng mực, bố thí có chừng mực. Phải có phong thái rộng lượng thanh cao, đối với người phải hiền hòa, thường xuyên thấu hiểu nỗi khổ của chúng sinh, có thể giúp người thì hãy giúp, ngày ngày làm việc thiện. Không được nóng giận. Không được nói lời thô tục. Không được mắng người. Không được lừa dối người. Kiên định niềm tin của mình, nhất định có thể đạt được giác ngộ. Tôn trọng người khác, mang lại lợi ích cho người khác. Không được nghiện rượu, làm rối loạn tâm tính. Phải cung kính với người xuất gia, cung kính với bậc trưởng thượng, phải có tâm từ bi, tâm bồ đề.

Phải lịch sự với tất cả mọi người, đừng nghĩ rằng mình học Phật là giỏi, rồi nhân cơ hội độ người quy y. Thường xuyên vui vẻ làm việc thiện, hoan hỷ giúp đỡ người khốn khó. Thành tâm tu tập Tứ gia hành, tu pháp Bổn tôn, hồi hướng cho mình và chúng sinh. Hoan hỷ xây dựng chùa chiền, giúp đỡ tăng ni, mang lại lợi ích cho người khác tu hành.

Không được đến những nơi không đứng đắn, trừ phi định lực của bạn đủ mạnh, có thể không bị cám dỗ. Không được nhận tiền bạc không rõ nguồn gốc, người quân tử yêu tiền, nhưng phải lấy theo đạo, phải là những gì thuộc về mình mới được nhận. Tập suy ngẫm, viết ra những tâm đắc, cũng có thể viết sách lập thuyết. Cúng dường Phật. Cúng dường pháp. Cúng dường tăng. Cúng dường Thượng sư. Cúng dường chúng sinh nghèo khổ. .............

Là Phật tử, chúng ta cũng phải tuyên thuyết thiện pháp, không mệt mỏi khi dạy dỗ người khác. Đạo tâm kiên định không thoái chuyển. Nương tựa vào Căn bản Thượng sư, Phật, pháp, tăng. Thực hành bát chính đạo. Bỏ ác, phát huy điều thiện. Phải sửa đổi những thói quen xấu, đoạn trừ tất cả chấp trước và phiền não. Phải phát tâm bồ đề, học tập tinh thần Bồ Tát, dùng tứ vô lượng tâm (từ bi hỷ xả) để bước vào Phật giáo Đại thừa.

Tôi (Lư Sư Tôn) chủ trương: Phật tử cần có tri thức, đó là thiện tri thức của Phật, là tri thức dẫn dắt bản thân và người khác đến tự tại giải thoát. Phải thông qua thiền định để thấy được Phật tính của chính mình. Thanh tịnh thức của mình. Thanh tịnh thân. Thanh tịnh ngữ. Thanh tịnh ý. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, ăn chính là "cúng dường", mặc chính là "kết giới", ở chính là "thiền định", làm việc chính là "giới luật". Làm việc cũng chính là nhất tâm bất loạn tu hành. Lành thay!

33. Pháp thân huyễn hóa

Liên Hoa Vi Yến nói: Con muốn chứng minh sự hiện hữu của Pháp thân Lư Sư Tôn. Con xin làm chứng. Mỗi khi con mất ngủ, con nhớ đến Lư Sư Tôn, Lư Sư Tôn liền xuất hiện. Ngài xoa đỉnh đầu con, và thế là con ngủ được.

Liên Hoa Lệ Quyên nói: Lư Sư Tôn trụ đỉnh, đi vào trung mạch, hai thành một. Thế là con trở thành Liên Hoa Đồng Tử. Con giơ hai tay ra, giúp người xoa lưng, tay chạm vào lưng người nào, người đó hết đau lưng. Đồng thời, tay như tia X-quang vậy, có thể biết điểm đau ở đâu, giúp người khác giải trừ bệnh tật. (Chú thích: Tương lai chỉ cần hợp nhất, liền có thể giúp đỡ chúng sinh.)

Liên Hoa Chiêu Mỹ nói: Con đang ở đàn thành tại nhà, con thưa với Sư Phật rằng tai con bị nhiều nước vào, có cả những giọt nước màu trắng, màu vàng, con không còn nghe được gì nữa. Tối hôm đó, con thấy Sư Phật trong phòng khách, và con nhìn thấy một cái chai, trong chai đựng nước và những hạt nhỏ, lại thấy có những con kiến đen to bò trên đó. Con đem chai đó vứt vào thùng rác. Từ đó, tai con đã khỏi hẳn! Thật là kỳ diệu. Con cảm tạ ơn gia trì của Sư Phật!

Liên Hồng nói: Lư Sư Tôn khai thị rằng: "Rất nhiều đồng môn đều được ở cùng với Pháp thân huyễn hóa của Sư Phật." Đúng vậy, từ khi tu pháp tương ứng với Thượng sư, con biết Pháp thân Sư Phật luôn ở bên con, trong mọi sinh hoạt đi đứng nằm ngồi, luôn có hỏi có đáp. Trời lạnh, giúp con đắp chăn. Trời nóng, giúp con bớt chăn. Pháp thân của Sư Phật thật là thân thiết!

Liên Hoa Trung Nhất nói: Con bị ung thư đại tràng, vào bệnh viện. Thấy Lư Sư Tôn xuyên tường đến bên giường con, nói với con: "Ta đến chữa bệnh cho con." Ngài đưa tay vào trong cơ thể con, móc móc móc, lấy ra được ba khối u. Con không hề thấy đau. Lư Sư Tôn nói: "Không có vấn đề gì nữa!" Sau đó, bác sĩ khám lại. Giật mình kinh ngạc! Vì không cần phải phẫu thuật, những thứ xấu đó đều biến mất rồi. Cảm ơn pháp thân huyễn hóa! Cảm ơn Sư Phật!

Liên Hoa Ngạn Minh nói: Nhà con có đám cháy rừng ở phía sau, lửa sắp lan đến nhà con. Con hét lớn: "Sư Phật cứu con!" Con bỗng thấy Pháp thân huyễn hóa của Lư Sư Tôn đứng trên mái nhà con. Ngài nói với đám cháy: "Lui lại cho ta! Lui lại!" Đám cháy ngoan ngoãn nghe lời, thật sự lui lại, gió đột nhiên đổi chiều. Nhà con không bị cháy! Thật là may mắn biết bao!

🌟

Pháp thân huyễn hóa ở cùng với rất nhiều đồng môn, hai mươi bốn giờ mỗi ngày. Ví dụ như: Lệ Phi, Tiểu Phân, Tố Khanh, Liên Ngật, Hiểu Quang, Sư Đầu, Khải Lệ, Giai Hinh, Hoàng Hoành, Hoằng Ngôn, Khiết Tây Ca, Liên Hỷ, Liên Ngạn, Hồng Long, Hàm Dự, Văn Chương, Vương Đỉnh, Lý Mẫn, Thục Phượng, Thiên Thành, Uy Văn, Bảo Dĩnh, Mạch Tử. Và còn nhiều nữa.

34. Lời vàng tối thượng của Lư Sư Tôn

Bổn tôn ở đâu! Tôi ở đó! Tôi và Bổn tôn không một không khác, hòa nhập vào nhau, không có phân biệt! Đại dương không thể chia cách chúng tôi, Núi cao không thể ngăn cản chúng tôi, Bổn tôn chính là đấng tối thượng của tôi. Tình yêu chân thật thân thiết nhất của tôi. Ban ngày nhớ mong, Ban đêm nhớ mong, Hai mươi bốn giờ mỗi ngày đều nhớ mong. Trong cuộc sống quy củ của tôi, từng giây, từng phút, từng giờ, người chính là sinh mệnh của tôi. Nhờ Bổn tôn, tôi thấy được chính mình. Nhờ Bổn tôn, tôi thấy được trời đất. Nhờ Bổn tôn, tôi thấy được chúng sinh. Nhờ Bổn tôn, tôi thấy được chân như. Thật ra, không có từ ngữ nào có thể miêu tả được Ngài, Ngài là đấng tối cao, Ngài là Đại Phạm, Ngài là bản thể thanh tịnh, Ngài là bản thể tối thượng. Vì đã hợp nhất, tôi không còn mong cầu gì nơi Ngài, cuối cùng, Ngài dạy tôi vô sở đắc. Chính vì vô sở đắc, tôi mới có thể vô sở trụ, mới có thể vô sở vị, mới có thể vô ngã, cuối cùng an trụ tâm tối thượng, đó thật là phong thái mê người. Không lo. Không buồn. Không tham. Khuôn mặt thanh thản không cầu, đó chính là Đạo. Thân vật chất và thân tinh quang, tuy là hai thứ, và lại khác nhau. Nhưng, tôi đã biết, thật không có nhị nguyên đối lập, những điều này vốn là một. Đấng tối thượng và Lư Sư Tôn cũng là một.

35. Thơ của Liên Hoa Đại Bàng

Mưa bay lất phất bên ráng chiều Ao sen Chân Phật tựa bức tranh Pháp âm Sư Phật như cam lộ Ban rải chúng sinh thoát khổ hèn Từ bi ôm ấp lòng như biển Trí huệ như đèn rọi u mê Thuyết pháp tựa xuân phong hóa vũ Đức hạnh thanh cao khó sánh bì Áo tăng phất phới bóng tiêu dao Thiền tâm vắng lặng ngộ vô biên Cầu Vồng Sơn Trang tùng xanh mãi Muôn đời đệ tử nhớ ơn thầy Ơn thầy như núi cao vời vợi Giáo huấn như suối thấm tâm điền Nguyện hóa bồ đề soi chúng sinh Tán tụng vô tận đến bỉ ngạn Đệ tử thành tâm mừng thọ sinh Vạn chúng kính ngưỡng cùng ca hát Hào quang trí huệ không tắt lụi Tâm như đại nhật chiếu càn khôn.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) đọc bài thơ của Liên Hoa Đại Bàng, tuy là lời tán dương, nhưng tôi cũng tự cảnh tỉnh mình.

Một, Phải cống hiến triệt để mới có thể thành tựu triệt để. Không ai có thể đạt được ngay tức khắc, đó chính là ý nghĩa của cuộc đời.

Hai, Tôi chưa từng rời xa bất kì ai, dù người đó có tin tưởng hay không tin tưởng. Người đã gặp tôi, hay chưa từng gặp tôi, có duyên hay vô duyên, đều phải độ họ một cách bình đẳng, đây mới chính là "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi".

Ba, Lục độ của Bồ Tát: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Tôi tu hành những điều này. Không phải để đến bốn thánh giới. Mà là để vào thế giới đầy hận thù, ngũ trược, thực hành từ bi và tâm bồ đề.

Bốn, Tôi học cách không chấp trước, do không chấp trước nên không có phiền não. Diệu pháp và bí mật của đại lạc, tất cả đều ở tại đây, vô chấp trước chính là vương trượng của đại lạc.

Năm, Pháp thân chân thật của tôi là hư không. Báo thân chân thật của tôi là Liên Hoa Đồng Tử. Ứng thân chân thật của tôi là Lư Thắng Ngạn. Và điều tối thắng trong nhân gian là Phật pháp. Người ta đảnh lễ tôi là: "Hư không".

Sáu, Pháp miên quang của tôi là: "Ram" - toàn thân là lửa, thiêu thành tro bụi, trở thành cốt tro. "Yam" - một trận gió lớn thổi lên, thổi sạch bách cốt tro. "Kham" - tất cả đều là không, tôi không còn gì cả.

Bảy, Tôi biết rằng, vạn pháp đều là "vô sở đắc", nên điều tôi đạt được chính là đắc được cái "vô sở đắc" này. Khi nhận rõ "vô sở đắc", sẽ không còn phiền não nữa.

Tám, Tôi cầu nguyện được Thượng sư gia trì, đây là dòng pháp truyền thừa. Tôi cầu nguyện được Bổn tôn nhiếp thụ, đây là bản địa của tôi. Tôi cầu nguyện được Hộ pháp che chở, đây là căn bản của sự nghiệp. Kính sư. Trọng pháp. Thực tu. Chưa từng một ngày gián đoạn. Mỗi ngày của tôi, không rời xa các Ngài.

Chín, Tôi hiểu rằng thế gian là khổ. Vô sở đắc là không. Nhân duyên là vô thường. Con người đều là huyễn ảo, là vô ngã. Vì vậy tôi có thể bất động tâm, buông bỏ tất cả, "bát phong" chỉ là tiếng cười ha ha.

Mười, Tôi có thể nhanh chóng nhập vào Tam ma địa, trong Tam ma địa có đại lạc, quang minh, tính Không. Có thể nhanh chóng tiến vào là vì vô niệm, tại sao tôi có thể vô niệm, bởi vì thế gian này vốn tịch tĩnh an hòa. Tất cả đều không có gì. Phi tưởng phi phi tưởng. Bởi vì tôi không có bất kì chướng ngại nào.

Mười một, Thân thể vật chất này của tôi, phải mang đến tâm đại bi và tâm bồ đề cho chúng sinh. Tôi cúng dường cho chúng sinh. Xin chúng sinh hãy tiếp nhận mandala của đại lạc, quang minh và tính Không này. Tôi là hoa sen. Tất cả chúng ta cùng nương theo hoa sen, đến được bờ giác.

36. Vũ Tự Tại bàn về chịu thay

Trung Quốc có một câu ngạn ngữ cổ: "Bồ Tát đất qua sông", câu tiếp theo là gì? Đáp: "Thân mình khó giữ!"

Vậy "Bồ Tát đất" là gì? Thực ra Bồ Tát có nhiều cấp bậc khác nhau, Bồ Tát đất nếu dịch theo ngôn ngữ Phật giáo thì chính là "Bồ Tát mới phát tâm". Hãy xem từ điển Phật học giải thích thế nào về "Bồ Tát mới phát tâm":

(1) Phạn ngữ nava-yāna-sajprasthita. Cũng gọi là sơ phát ý, sơ phát tâm, tân phát tâm. Viết tắt là tân phát, sơ tâm. Nghĩa là người mới phát tâm bồ đề và bước vào đạo Phật. Bồ Tát mới phát tâm tương đương với vị trí Thập Tín trong 52 địa vị; do mới học đạo Phật nên còn gọi là Bồ Tát tân học. Kinh Duy Ma quyển trung nói: "Các vị Bồ Tát đã đắc thần thông liền tự biến hình thành tòa sư tử cao bốn vạn hai nghìn do tuần, các vị Bồ Tát mới phát tâm và đại đệ tử đều không thể lên được." Đại Trí Độ Luận quyển 61 nói: "Không nên nói nghĩa tùy hỷ của bát nhã ba-la-mật trước mặt Bồ Tát mới học. Vì sao? Nếu người có ít phước đức thiện căn nghe pháp tính Không triệt để này, liền chấp vào không và nghĩ rằng: 'Nếu tất cả pháp đều rốt ráo không, không có gì cả, thì ta tạo phước đức làm gì?' Từ đó quên mất thiện nghiệp. Vì vậy, đối với Bồ Tát mới phát tâm, trước hết dạy họ tùy hỷ có tướng, dần dần có được sức phương tiện, sau đó mới có thể thực hành tùy hỷ vô tướng." Điều này là vì Bồ Tát mới phát tâm học hiểu chưa thuần thục, nên không nên nói với họ về lý vô tướng của bát nhã. [Kinh Pháp Hoa quyển 1 phẩm "Phương Tiện", Kinh Đại Phẩm Bát Nhã quyển 1 phẩm "Tập Ứng", Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận quyển 12 phẩm "Trợ Niệm Phật Tam Muội", Tịnh Độ Thập Nghi Luận]

Trọng tâm nằm ở hai câu này: 1. Tu học Phật đạo còn nông cạn, nên còn gọi là Bồ Tát sơ học. Không nên giảng về ý nghĩa tùy hỷ của bát nhã ba-la-mật trước mặt Bồ Tát sơ học. 2. Bồ Tát mới phát tâm học hiểu chưa thuần thục, nên không nên nói với họ về lý vô tướng của bát nhã.

Ý nghĩa là: "Đừng tùy tiện nói với người mới học về giáo lý thâm sâu tột cùng của Phật pháp, nếu không sẽ gây hiểu lầm, không những không giúp ích cho việc tu hành của họ mà còn tạo thêm chướng ngại." "Người mới học phát tâm học hạnh Bồ Tát để giúp người là điều tốt, đáng được tán thán, nhưng phải tự lượng sức mình, với trình độ hiện tại có thể làm được những gì?" Nói cách khác, có bao nhiêu năng lực thì làm bấy nhiêu việc!

Có một câu chuyện vui: "Nếu vợ và mẹ vợ của bạn cùng rơi xuống nước, bạn sẽ cứu ai trước?" Câu chuyện này, "ở đây" câu trả lời đúng là: "Tôi không cứu ai cả, muốn cứu cũng không cứu được, vì tôi không biết bơi!" Ha ha ha!!

Kể xong câu chuyện vui, quay lại chủ đề chính hôm nay, Căn bản Thượng sư là gì?

Trọng điểm: 1. Xét từ nghĩa rốt ráo, Căn bản Thượng sư là đại diện cho nghĩa rốt ráo của tính Không. Nghĩa rốt ráo của tính Không, ở đây cũng không thể tùy tiện nói với Bồ Tát mới phát tâm về nghĩa Không là gì, vì vậy chúng ta cũng không nên tùy tiện giải thích cho người thường về nghĩa rốt ráo của Căn bản Thượng sư từ góc độ này.

2. Xét từ nghĩa phương tiện, Căn bản Thượng sư là hiện thân của Tam Bảo Phật pháp tăng, là bậc thành tựu chỉ dạy chúng ta từ phàm phu đến thành tựu. Về phương pháp giáo hóa, bậc thành tựu Căn bản Thượng sư để giúp hành giả đạt được thành tựu như Ngài, cũng thị hiện quá trình từ phàm phu đến thành Phật, bởi vì Ngài muốn dạy bạn cách giải thoát khỏi khổ đau sinh, lão, bệnh, tử, nên Ngài phải thị hiện sinh lão bệnh tử ở nhân gian.

3. Nhưng nhiều người vì thấy Căn bản Thượng sư cũng giống như người bình thường, cũng sinh lão bệnh tử, bệnh cũng phải đi khám bác sĩ uống thuốc, nên nghĩ rằng chúng ta cũng phải đối xử với Căn bản Thượng sư như cách nghĩ và cách làm đối với người thường, dẫn đến: "Tôi thấy Sư Tôn (Căn bản Thượng sư) gặp khó khăn, tôi phải phát tâm giúp Sư Tôn (Căn bản Thượng sư) làm gì đó." - điều này là đã đi quá đà rồi.

4. Phát tâm như vậy từ góc độ "nhân tính" thì không sai, người thân của mình gặp nạn mình còn phải cứu, huống chi là Sư Tôn. Nhưng điểm quan trọng là xét từ nghĩa phương tiện thì bạn là Bồ Tát đất qua sông đấy! Bạn còn không thể tự cứu được mình, bạn định cứu ai chứ?

5. Có câu ngạn ngữ "lực bất tòng tâm" đúng không? Bạn thấy vợ rơi xuống nước, đầu óc nóng vội, liền "ùm" một phát nhảy xuống nước để cứu cô ấy, sau đó mới chợt nhớ ra: "Chết rồi, mình không biết bơi!", ban đầu định cứu người, cuối cùng lại phải nhờ người khác cứu mình. Buồn cười hơn nữa là, sau khi nhảy xuống nước mới chợt nhớ ra: "Vợ mình là huấn luyện viên bơi lội"!

6. Tôi biết chắc chắn sẽ có người nói: "Chúng ta tu pháp cuối cùng đều hồi hướng cho Căn bản Thượng sư thân thể khỏe mạnh, thường trụ thế gian, không nhập Niết bàn!" Như vậy có sai không? Không sai! Nhưng đây là nói về ý nghĩa dạy bạn tu hành, học cách giải thoát khỏi khổ đau sinh lão bệnh tử, để bạn từ việc tu pháp học cách lễ kính Căn bản Thượng sư, gần gũi với Căn bản Thượng sư hơn, mới có thể tiếp nhận được đại gia trì.

Hơn nữa, bậc thành tựu không nhập Niết bàn mới có thể độ hóa thêm nhiều chúng sinh, "nhờ công đức hồi hướng này, bạn sẽ có duyên với chúng sinh, phúc phần càng tăng trưởng, trên con đường tu hành sẽ gặp được nhiều thiện tri thức, quý nhân hơn, dễ thành tựu hơn, ít chướng ngại hơn, đây là một vòng tuần hoàn thiện lành." Điều này hoàn toàn khác với việc hiểu sai về ý nghĩa Căn bản Thượng sư khi cho rằng Căn bản Thượng sư gặp nạn nên chúng ta phải phát tâm giúp Căn bản Thượng sư thoát khỏi khổ nạn!

Xin nhắc nhở mọi người một câu: "Nếu bạn xem Căn bản Thượng sư là Phật thì sẽ nhận được gia trì của Phật, nếu bạn xem Căn bản Thượng sư là Bồ Tát thì sẽ nhận được gia trì của Bồ Tát". Cùng đạo lý đó, có nghĩa là: "Nếu bạn xem Căn bản Thượng sư là người sẽ bị bệnh, sẽ gặp nạn, thì đương nhiên bạn cũng sẽ nhận được gia trì của bệnh tật và khổ nạn". Cùng một bài hồi hướng, phát tâm khác nhau sẽ được kết quả khác nhau!

Xin nhấn mạnh thêm một lần nữa, bậc thành tựu Căn bản Thượng sư để giúp bạn đạt được thành tựu như Ngài, Ngài cũng thị hiện quá trình từ phàm phu đến thành Phật (tên chuyên môn gọi là Đại Thủ Ấn). Bởi vì Ngài muốn dạy bạn cách giải thoát khỏi khổ đau sinh, lão, bệnh, tử, nên Ngài phải thị hiện sinh lão bệnh tử, đây là nghĩa phương tiện. Nhưng thực tế Căn bản Thượng sư vốn không có sinh lão bệnh tử, như vậy bạn đã hiểu chưa?

Tôi thường nói: "Biết nhưng không làm được, rất bình thường, nếu những gì bạn biết đều làm được hết thì bạn đã thành Phật rồi". Được rồi! Nghe nhiều như vậy, hãy quay lại câu chuyện vui tôi kể ban đầu: "Vợ và mẹ vợ của bạn rơi xuống nước, bạn sẽ cứu ai?" Câu trả lời của bạn là gì? Xin hãy trả lời!

🌟

Lư Sư Tôn nói: "Nghiệp không thể nghĩ bàn!" Lại nói: "Hồi hướng không thể nghĩ bàn!" Và nói: "Phát nguyện không thể nghĩ bàn!" Tóm lại, bạn vẫn nên đi trên con đường "trung đạo", có bao nhiêu năng lực thì hồi hướng, phát nguyện bấy nhiêu. Đây là quan điểm của tôi.

Tôi nhớ có một hành giả phát nguyện: "Tất cả nguyện lực của chư Phật mười phương ba đời, chư Bồ Tát mười phương ba đời đã phát. Tất cả đều là nguyện của con." Anh ấy hỏi tôi nguyện này, sự hồi hướng này có tốt không? Tôi đáp: "Không thể nghĩ bàn!" Tôi cho rằng: "Bạn nâng được bao nhiêu ký thì hãy hồi hướng bấy nhiêu." Như vậy mới thích hợp. Người ăn xin dĩ nhiên có thể phát đại nguyện, nhưng, làm không được thì thôi. "Chịu thay cũng như vậy."

37. Ghi chép việc cứu tế của Thubten Karma

Đảnh lễ Căn bản Truyền thừa Thượng sư Thánh Tôn Liên Sinh Phật (ba lần đảnh lễ.)

Đệ tử Thubten Karma trong thời gian gần đây khi thực hiện hoạt động từ thiện bố thí ở Nepal đã nhận được đại gia trì của Sư Tôn, đặc biệt xin báo cáo với Sư Tôn về việc này.

Nguyên do là vào tháng 5, Nepal gặp phải thời tiết hạn hán, nhiều vùng núi đã xảy ra cháy rừng. Một ngày nọ, con nhận được yêu cầu xin giúp đỡ 18 hộ gia đình bị cháy rừng thiêu rụi, địa điểm ở phía sau ngọn núi nơi Phật Thích Ca Mâu Ni xả thân cứu hổ đói, cách Kathmandu khoảng 3 giờ đi đường núi. Con lập tức đồng ý và sắp xếp những vật tư cần thiết cùng tấm lợp mái kẽm, đồng thời chuẩn bị xe cộ, dự định vào ngày 8 tháng 5 sẽ đến đó để an ủi và động viên họ. Mặc dù nhiều người ngăn cản vì lý do đám cháy rừng chưa tắt, có thể nguy hiểm, nhưng con vẫn mong muốn đến được vùng thiên tai để thăm hỏi người dân bị nạn.

Ngày hôm đó, vào buổi sáng khi đang tu pháp cầu nguyện Sư Tôn gia trì cho mọi việc được hanh thông, con nghe rõ tiếng Sư Tôn nói: "Trời sẽ mưa, trời sẽ mưa".

Sau đó con lên xe đến khu vực đó để họp với thị trưởng và các quan chức chính phủ, bàn bạc về việc thành lập trung tâm lọc thận miễn phí trong một bệnh viện mới. Đến trưa, trời vẫn nắng chang chang, con nghĩ trong lòng, có lẽ những gì mình nghe được chỉ là ảo giác...

Sau khi ăn trưa xong, cả đoàn chúng con lái xe đến vùng thiên tai. Một điều không thể tin được đã xảy ra. Khi vào đến vùng núi bị thiên tai, trời bắt đầu mưa. Sau đó mưa càng lúc càng to, kèm theo cả những hạt mưa đá to bằng móng tay.

Khi đến vùng thiên tai, chủ tịch ủy ban thôn nói với con rằng đã một tháng không có mưa, cho đến khi con đến mới có cơn mưa ân điển này, thật là không thể nghĩ bàn. Con nói cơn mưa này là nhờ ân điển gia trì của sư phụ tôi, Ngài là bậc thành tựu, luôn cứu độ chúng sinh.

Trước khi kết thúc hoạt động bố thí, con nhận được báo cáo của họ, nói rằng cơn mưa này đã dập tắt hơn mười điểm cháy rừng trong khu vực. Trong khoảnh khắc ấy, lòng con thực sự dâng trào lòng biết ơn vô hạn và niềm tin kiên định với Sư Phật, nước mắt hòa cùng nước mưa chảy xuống.

Đệ tử trong tháng 5 đã thực hiện các hoạt động từ thiện bố thí nhân dịp kỷ niệm 80 năm Phật đản của Sư Tôn. Đồng thời đã đến chùa tổ của Đại sư Sakya Chứng Không và chùa Karma Lekshey Ling - nơi Sư Phật đã an tọa để bố thí và giảng pháp. Con hy vọng với sức lực nhỏ bé của đệ tử, có thể giúp Sư Tôn được biết đến nhiều hơn ở Nepal, đồng thời giúp tông phái được truyền bá tại Nepal.

Không dám làm phiền thời gian của Sư Phật thêm nữa. Kính chúc Sư Phật pháp thể an khang, sáu thời cát tường, đại lạc tùy ý, thường trụ thế gian, thường chuyển pháp luân. Đệ tử Thubten Karma đảnh lễ.

(Lư Sư Tôn có lời vàng rằng: "Có bố thí thì có công đức. Đây là bí quyết khai vận.")

38. Tường thuật tại chỗ về Nghìn chiếc thuyền pháp cứu độ

Sự cứu độ không thể nghĩ bàn của Sư Tôn ~ Nghìn chiếc thuyền pháp ~ Ba phần

Đệ tử Liên Hoa Mai Liên xin được trình báo lên Sư Tôn về sự cứu độ không thể nghĩ bàn của Sư Tôn.

(Phần một)

Vào chiều ngày 15 tháng 1 năm 2023, như thường lệ, đệ tử theo Sư Phật đồng tu trên mạng, hôm đó đồng tu Bổn tôn Kim Cang Tát Đỏa. Trong lúc đồng tu, Sư Phật nhắc đến việc trước đây từng làm pháp hội siêu độ ở Seattle và Đài Loan, Sư Phật hiển thần thông, cho phép tổ tiên và người thân đời trước hiện về, gặp mặt những người có mặt tại đó (âm dương hội), có đồng môn tại buổi trực tiếp làm chứng cho việc này.

Lúc đó con chợt nảy ra ý nghĩ, lập tức nhắm mắt chuyên nhất, với tâm tịnh tín chân thành đối với Căn bản Truyền thừa, cung kính dùng thánh danh và Phật lực của Sư Phật, thỉnh mời Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (vì con mỗi ngày đều chép Kinh Địa Tạng, có thể cảm nhận được sự hộ trì của Địa Tạng Vương Bồ Tát) dẫn dắt bà ngoại đã mất 35 năm lên đây, con muốn gặp bà (bà ngoại sống chung với chúng con, chúng con từ nhỏ đều do bà ngoại chăm sóc lớn lên, nên quan hệ rất thân thiết).

Rất nhanh sau đó có một dòng chảy pháp giáng xuống, xung quanh có một từ trường đặc biệt, con thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát từ bi mỉm cười, rồi thấy bà ngoại đứng phía sau Bồ Tát, nước mắt con bắt đầu tuôn rơi không kìm được... Hình dáng bà ngoại hiện ra giống hệt như lúc còn sống. Mặc dù lúc đó con khóc không kiềm chế được, nhưng không quên nhắc nhở bà ngoại rằng vị đang thuyết pháp trực tiếp kia là Lư Thắng Ngạn Hoạt Phật, là Căn bản Thượng sư của con, cũng là vị thầy mà con đã giúp bà quy y. Con từ từ dạy bà ngoại trì chú tâm của Sư Phật (Om guru liansheng siddhi hum), rồi dạy bà trì thánh hiệu "Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát" và "Nam mô A Di Đà Phật". (Con dạy bà ba thánh hiệu, hy vọng bà sẽ chọn một trong những thánh hiệu hoặc thần chú có duyên với bà để trì niệm.)

Con nói với bà ngoại rằng nhất định phải tu hành tốt, phải thường xuyên trì tâm chú hoặc thánh hiệu, vì chỉ có thông qua tu hành mới có thể nâng cao cảnh giới của bà ngoại. Sau đó, một cách tự nhiên, con lại quay về màn hình trực tiếp của Sư Phật...

Vài ngày sau, bà ngoại báo mộng cho con, bảo con giúp bà đăng ký pháp hội của Sư Phật. Thế là con đã đăng ký giúp bà, cầu xin Sư Phật từ bi tiếp dẫn bà ngoại lên nghìn chiếc thuyền pháp, vãng sinh tịnh thổ.

(Phần hai) Siêu độ bằng nghìn chiếc thuyền pháp

Sau pháp hội Hộ Ma tại Cầu Vồng Lôi Tạng Tự ngày 3 tháng 4 năm 2023, Sư Phật hóa hiện nghìn chiếc thuyền pháp để siêu độ. Con chuyên tâm theo sự chỉ dẫn của Sư Phật để quán tưởng, nhìn thấy bà ngoại đã mất đang đứng ở giữa một chiếc thuyền pháp khổng lồ (giống như tàu Titanic). Con đứng trên bến tàu, dùng tâm ý truyền đạt cho bà ngoại, bảo bà một lòng đi theo nghìn chiếc thuyền pháp do Sư Phật chủ trì, theo A Di Đà Phật về tịnh thổ tiếp tục tu hành. Bà ngoại nhìn con một cái, rồi gật đầu với con, sau đó quay về phía đầu thuyền pháp, cung kính chắp tay cúi người 90 độ, đảnh lễ A Di Đà Phật. Ngay lúc đó có một dòng pháp lực rất mạnh giáng xuống, con nghẹn ngào rơi lệ, cảm ơn Sư Phật và chư Bồ Tát đã cứu độ...

(Phần ba)

Một tuần sau khi bà ngoại lên nghìn chiếc thuyền pháp, trong buổi đồng tu thứ Bảy tại Seattle Lôi Tạng Tự, lúc thiền định con nhìn thấy một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp, mặc áo cưới đỏ kiểu cổ. Cô ấy cứ gọi con mãi, con nói không biết cô ấy là ai. Cô ấy nói là bà ngoại của con, giờ đã đến một cảnh giới rất tốt. Bà ngoại trẻ đẹp vui vẻ cười với con, vẫy tay chào tạm biệt.

Kính thưa Sư Phật, đây là trải nghiệm thật sự của đệ tử. Đệ tử không ngờ rằng, nhờ vào tịnh tín đối với Căn bản Thượng sư, lòng thành khẩn cầu nguyện, có thể cảm ứng Địa Tạng Vương Bồ Tát từ bi dẫn dắt bà ngoại hiện thân, bà ngoại báo mộng xin đăng ký pháp hội nghìn chiếc thuyền pháp của Sư Tôn để được siêu độ, vãng sinh tịnh độ và những hiển hóa khác, chứng minh Chân Phật Mật Pháp không thể nghĩ bàn, sự cứu độ của Pháp thân Sư Phật hiện diện khắp nơi, khiến người ta vô cùng xúc động và tán thán.

Cảm ơn sự cứu độ không thể nghĩ bàn, hiện diện khắp nơi của Sư Phật. Đệ tử thành tâm cầu xin Phật trụ thế, thường chuyển pháp luân. Đệ tử Liên Hoa Mai Liên đảnh lễ. (Malaysia - Phù Dung)

39. Kiến chứng pháp hội thù thắng

Đảnh lễ Sư Tôn kính yêu: Kính chúc Sư Tôn thân thể khỏe mạnh, vạn sự cát tường như ý.

Đệ tử Liên Hoa Hiểu Quang, nhờ ơn Sư Tôn thương yêu, cho phép đệ tử viết lại chứng nghiệm tại pháp hội của Sư Tôn. Đệ tử vô cùng vinh hạnh, xin cảm ơn Sư Tôn.

Lý do đệ tử báo cáo lên Sư Tôn không phải để khoe công hay cầu được sủng ái. Mà là muốn thỉnh cầu Sư Tôn ấn chứng những điều đệ tử đã thấy, đồng thời hy vọng dùng những gì đệ tử đã tận mắt chứng kiến để nói cho mọi người biết Sư Tôn của chúng ta tôn quý và vĩ đại biết bao, từ bi và khoan dung biết bao, chúng ta - những đệ tử Chân Phật - thật may mắn biết bao, nhất định phải hết sức trân quý nhân duyên được gặp Sư Tôn trong đời này.

Trong hai pháp hội vừa kết thúc vào thứ Bảy (24/2) và Chủ nhật (25/2), đệ tử đã chứng kiến nhiều cảnh tượng thù thắng khi Sư Tôn gia trì. Lúc đó đệ tử đã nhiều lần muốn bước vào Hộ Ma Bảo Điện để báo cáo với Sư Tôn trước mọi người, nhưng lại sợ nếu những gì mình thấy có sai sót thì chẳng phải là vọng ngữ hay sao. Thêm vào đó, đệ tử cảm thấy nghiệp chướng sâu nặng, không đủ tư cách để làm chứng. Vì vậy cuối cùng đệ tử đã không đủ can đảm thực hiện, chỉ báo cáo miệng với Thượng sư Liên Truyền và nhờ Thượng sư truyền đạt lại cho Sư Tôn. Kính xin Sư Tôn tha thứ.

Sau đó đệ tử cảm thấy làm như vậy là không như pháp và có thiếu sót, trong lòng bất an. Nhờ sự khích lệ của hai vị Thượng sư có chứng lượng là Thượng sư Liên Truyền và Thượng sư Liên Kỳ, đệ tử mới cầm bút lên, một lần nữa dùng hình thức viết thư để báo cáo lên Sư Tôn và cầu xin Sư Tôn ấn chứng.

I. Kiến chứng về pháp hội truyền pháp Thiên nhãn thông của Bạch Độ Mẫu:

Có hai điểm chính: 1. Về sự hiển hiện giáng lâm của chư Phật Bồ Tát và chư thiên Hộ pháp, Không hành thần chúng:

Khi Sư Tôn khai thị trong pháp hội, Ngài có nói đến việc rất nhiều Quan Thế Âm Bồ Tát giáng lâm.

Đệ tử cũng nhìn thấy. Đồng thời thấy được Sư Tôn và Quan Thế Âm Bồ Tát hợp nhất, Liên Hoa Đồng Tử với Sư Tôn hợp nhất, chư Phật Bồ Tát như những vì sao lấp lánh trên bầu trời, xuất hiện trong hư không.

Trong hư không còn có rất nhiều Ngũ Sắc Thiên Nữ đang ca múa nhẹ nhàng, uyển chuyển, tuyệt đẹp khôn tả. Đệ tử lúc đó tưởng các vị là thị giả của Diêu Trì Kim Mẫu, đến khi nghe Sư Tôn khai thị mới biết đó là Không Hành Mẫu.

2. Đôi mắt kỳ diệu:

Trong khoảng không gian tĩnh lặng và rạng ngời, dần dần hiện ra một con mắt to lớn, xoay theo chiều kim đồng hồ. Chẳng bao lâu sau, xung quanh con mắt xuất hiện một vầng hào quang trắng ngang giống như vành đai Sao Thổ, xoay từ phải sang trái. Vầng hào quang dần dần lớn rộng, bên trong có một hàng Sư Tôn ngồi, mặc long bào trắng, y phục Lama đỏ, đầu đội vương miện trắng nhọn. Sau đó vầng hào quang trên dưới xoay hợp nhất với tốc độ cao, trong một khoảnh khắc biến thành một vị Bạch Độ Mẫu trang nghiêm vô cùng. Đệ tử cảm thấy Bạch Độ Mẫu đang nhìn mình, bỗng nhiên cảm giác thân thể mình bị hút vào thiên nhãn của Bạch Độ Mẫu, rồi như đi vào đường hầm thời không, càng lúc càng sâu. Cuối cùng như đi vào một mật thất, căn phòng này trống trải, chỉ có một kim tự tháp thủy tinh trong suốt, thân thể đệ tử từ trên không rơi vào trong kim tự tháp, thấy Sư Tôn ngồi trước mặt đệ tử, mỉm cười. Đột nhiên Sư Tôn lại biến thành Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, rồi đệ tử cảm thấy Liên Sư phóng ra ánh sáng trắng rực rỡ, thế là đệ tử cảm thấy thân mình đi vào trong ánh sáng trắng và nhập định.

II. Kiến chứng về đại pháp hội Hộ Ma Thánh Quán Âm Đệ Nhất Phú Hào:

Có bốn điểm chính: 1. Về sự hiển hiện giáng lâm của chư Phật Bồ Tát và chư thiên Hộ pháp, Không hành: Trong hư không có khoảng bốn tầng, tầng cao nhất là chư Phật Bồ Tát, kế đến là chư thiên Hộ pháp và Không hành thần chúng, tầng thấp nhất là vô số Long vương. Long vương ngồi trên ghế. 2. Về mây lành và văn tự, âm thanh trong hư không trên Hộ Ma Bảo Điện chùa Cầu Vồng:

Phía trên Hộ Ma Bảo Điện chùa Cầu Vồng, từ hư không chậm rãi bay đến từng dãy mây trắng cát tường, phủ kín cả đại điện, mây như những đợt sóng, sóng này chồng lên sóng kia.

Khi đệ tử thấy chư tôn tầng tầng lớp lớp giáng lâm, trong hư không hiện ra văn tự (Hiền Kiếp Thiên Phật, Mahakala, Mãn Nguyện Đồng Tử...)

Đệ tử nghe thấy trong hư không có tiếng nói: Sau này Chân Phật Tông sẽ có rất nhiều đại phú hào, sư phụ của các bạn là vạn thế Pháp Vương.

3. Những viên gạch vàng di chuyển như quân domino:

Đệ tử nhìn thấy một hàng gạch vàng dài vài cây số, xếp như những quân domino, uốn lượn quanh co như dòng Hoàng Hà chín khúc. Bỗng nhiên viên gạch đầu tiên ngã xuống, rồi lần lượt từng viên lăn theo. Trong hư không, Mãn Nguyện Đồng Tử bay qua bay lại nhảy múa.

4. Sự thị hiện tâm bồ đề rộng lớn của Sư Tôn và việc chịu thay nghiệp lực chúng sinh, cùng sự lĩnh ngộ của đệ tử:

Khi Sư Tôn khai thị về thân thể khỏe mạnh, vĩ đại của Ngài, trong tâm trí đệ tử lập tức hiện lên hình ảnh trước đây Sư Tôn cởi áo thị hiện thân hình cường tráng. Nhưng đột nhiên, thân trên trần của Sư Tôn trong chớp mắt xuất hiện nhiều lỗ thủng, như thể bị súng máy bắn thành tổ ong vậy. Đệ tử kinh hãi, tại sao lại như thế? Ngay lúc đó, thân thể Sư Tôn lại trở về trạng thái bình thường. Chợt hiểu ra đệ tử bỗng nhận ra vì sao lại như vậy. Thì ra chư Phật Bồ Tát thông qua sự thị hiện này để giáo hóa chúng con - những đệ tử Chân Phật.

Mỗi lần chúng con cầu xin Sư Tôn gia trì, Ngài đều gánh chịu nghiệp lực thay cho chúng con. Đệ tử cũng có lúc sinh tâm lười biếng: "Có Sư Tôn gia trì rồi, công khóa và sự tu tập của mình có kém một chút cũng không sao". Nhưng chính vì suy nghĩ như vậy mà vô hình trung đã làm tăng thêm gánh nặng và phiền phức cho Sư Tôn, gián tiếp làm tổn thương Ngài. Thật là có lỗi với Sư Tôn. Vì cứu độ chúng sinh, Sư Tôn không quản vất vả, không một lời than phiền, vô tư quan tâm từng đệ tử. Là đệ tử chúng con càng phải trân quý, yêu thương Sư Tôn, khi cầu xin gia trì phải làm tốt công khóa, sửa chính thân tâm, hiểu rõ nhân quả. Thân tâm thanh tịnh, dù kết quả thế nào cũng phải tâm niệm tri ân. Chỉ có như vậy mới được đại gia trì chân thật, đồng thời giảm nhẹ gánh nặng cho Sư Tôn, quan trọng hơn là nâng cao được chính mình, đi đúng hướng tu hành, thực sự thể hội được thế nào là "mọi sự đều là sự sắp đặt tốt đẹp nhất", thế nào là kính sư chân thật.

Kính trình lên Sư Tôn và cầu xin thầy ấn chứng. Cầu chúc Sư Tôn Phật an. Đệ tử Liên Hoa Hiểu Quang quỳ lạy đảnh lễ. Ngày 26 tháng 2 năm 2024.

🌟

Tôi (Lư Sư Tôn) viết một bài kệ:

Đội chiếc mũ pháp cao nhọn Một lần nữa Bước về phía lò Hộ Ma Đếm đã bốn năm mươi năm Mỗi pháp hội Mỗi lần thêm già Ai bảo mịt mù xa vời Chư Phật Bồ Tát thiên nữ đều giáng lâm Đã có tri âm sớm tỏ tường Hãy làm chứng cho chúng sinh Thù thắng chưa từng thiếu.

40. Cảm ngộ khi tôi đọc "Tịnh Quang Cứu Cánh Vô Thượng" - Liên Sinh Hoạt Phật giảng Tâm Kinh

Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật vĩ đại đã giảng giải một bộ kinh điển vô cùng thâm sâu là "Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh" tại Seattle Lôi Tạng Tự trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 1993. Nội dung giảng kinh sau đó được biên soạn thành cuốn sách "Tịnh Quang Cứu Cánh Vô Thượng". Sau 30 năm, khi đệ tử đọc lại cuốn sách này, dường như được quay trở về không gian và thời gian khi Ngài đang giảng pháp tại Seattle Lôi Tạng Tự. Thông qua kiến thức uyên bác và ngôn từ gần gũi của Sư Phật, Ngài đã chỉ dạy chúng con rằng bộ "Bát Nhã Tâm Kinh" này chính là chân lý, là sự tồn tại vượt trên tất cả mọi tồn tại, là đại ý vốn có của vũ trụ mười phương, tất cả hiện tượng đều là sự thể hiện của "Tâm Kinh". Tất cả hiện tượng đều bắt nguồn từ "tính Không", và sự thể hiện của "tính Không" chính là tất cả hiện tượng.

Pháp môn Bát Nhã trong Tâm Kinh là đại pháp thành tựu cuối cùng của con đường Lục độ Đại thừa. Như đã nói, chư Phật ba đời nhờ vào bát nhã ba-la-mật-đa mà đắc được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Không tu bát nhã thì không thể thành Phật. Học Phật không phải là niềm tin mê tín, học Phật đòi hỏi chúng ta phải hoài nghi, phải đặt câu hỏi. Chẳng hạn như vấn đề sinh tử, vấn đề tự ngộ, v.v... đòi hỏi chúng ta phải quan sát thấu đáo, và thành tựu bằng trí tuệ, không phải thành tựu bằng mê tín, điều này phải dựa vào bát nhã. Vì vậy, pháp môn bát nhã là điểm cốt lõi của Phật pháp, dần dần phát triển thành pháp tướng Duy thức, cho đến sự phát huy của bát nhã. Trong sách, Sư Tôn đã giải thích tường tận cho chúng ta về tâm yếu của bát nhã. Pháp môn bát nhã nhờ Bồ Tát Long Thụ hoằng dương rộng rãi mà tỏa sáng rực rỡ.

Giáo pháp của Phật có hai đường hướng, một là lấy bốn diệu đế của Tiểu thừa "khổ, tập, diệt, đạo" làm nền tảng, tất cả mọi thứ trên thế gian đều là khổ. Phiền não cũng là khổ, sinh tử là nỗi khổ lớn, có sinh ắt có tử, sinh lão bệnh tử đều là khổ. Làm sao để thoát khổ? Làm sao để giải thoát? Nếu không thể giải thoát thì sao? Trừ phi đắc đạo, diệt trừ hết thảy vọng tưởng phiền não, dứt sạch nghiệp lực mới có thể giải thoát mọi khổ đau, ly khổ đắc lạc. Nhưng tất cả phàm phu chúng sinh lại lấy khổ làm vui, tích tụ mọi khổ đau, ra sức đuổi theo những điều đau khổ xem như niềm vui hiện thực, vì vậy Đức Phật nói chúng sinh điên đảo.

Ý nghĩa của Quán Tự Tại chú trọng ở chữ "Quán", tức là luôn luôn quán chiếu những ý niệm khởi lên, quan sát sự sinh diệt của từng ý nghĩ, dùng trí tuệ của mình để nhận biết chúng, đây là phương pháp thực hành, cũng chính là "quán chiếu giải thoát". Trên thế gian này, tất cả phiền não của chúng sinh đều do không thấu đáo mà sinh ra phiền não, nếu có thể thấu suốt và buông xả, sẽ không còn phiền não. Cần thường xuyên quán chiếu rằng mọi sự việc trên thế gian này đều là không tướng của vạn pháp. Giống như khi chúng ta tu tập tọa thiền, nếu trong tâm không quán sát tâm niệm của chính mình, không quán tâm, thì chỉ là ngồi trơ ra mà thôi.

"Ngũ uẩn giai không" trong Tâm Kinh nghĩa là thân cũng không, tâm cũng không, thế giới tinh thần và vật chất thảy đều không, thân tâm cũng không, cảm giác cũng không. Không rồi, không còn nữa, nhưng không phải là chết; không có niềm vui, tìm kiếm cảm thọ nơi thân tâm mình cũng chẳng thấy đâu, không còn hiện tượng đau lưng tê cứng, nếu trong tâm thức còn một cảm giác nào đó, đó chính là thọ ấm, cũng phải buông bỏ, vọng tưởng không còn.

Nếu chúng ta cầu thần thông, cầu thanh tịnh, cầu cảnh giới, đều là dục cầu của vọng niệm ý thức. Phải niệm niệm xả, xả tức là bố thí. Ý niệm khởi lên liền buông bỏ, có thể niệm niệm bố thí thì tự nhiên nhẫn nhục, nhẫn tức là cắt đứt ý niệm, phù hợp với pháp nhẫn, tự nhiên tinh tấn. Niệm khởi xả bỏ, đi cũng không đuổi theo, tự nhiên là thiền định. Lục độ này đều ở trong cảnh giới quán tâm, chờ đợi tự tính bát nhã hiển lộ thì soi thấy trong ngoài thảy đều không. Quán tự tại chính là thần chú, quán tự tại chính là đà-la-ni, pháp môn tổng trì.

"Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc." Sau khi đã không rồi thì ngay cả không cũng không giữ lại, nếu còn một cảnh giới không, thì trạng thái thanh tịnh đó vẫn là biến tướng của sắc pháp. Tiểu thừa Thanh Văn chứng đắc "sắc chẳng khác không" rồi vẫn còn phải không luôn cái không đó. "Không chẳng khác sắc", không vẫn còn là tướng thanh tịnh hữu vi, do tâm ý thức biến hiện, vẫn còn chấp trước. "Sắc tức là không, không tức là sắc", sắc pháp này tự thân vốn là không, bản tính của nó vốn không trụ. Bởi vì vốn không nên mới có sắc, có thân thể vật chất, có thế giới vật chất hiện hữu và tác dụng. Tất cả vạn hữu các pháp, tất cả hiện tượng vũ trụ đều do không mà có, không có chân không thì không có duyên khởi của vạn hữu. Giống như căn phòng nếu không trống thì không thể sử dụng, chính vì trống nên mới có nhiều công dụng. Vạn pháp đều từ không sinh ra, từ không diệt đi, không sinh không diệt, chẳng phải là không có gì. Nó có sinh có diệt, đến đi tự tại, sinh diệt tự do. Cho nên Như Lai, không từ đâu đến, không đi về đâu, tự tính vốn không, nên nói "duyên khởi tính không, tính không duyên khởi". Trong sách, Sư Tôn đã giảng giải về tính Không và thực hữu một cách rất thấu đáo, pháp môn bát nhã là pháp môn thành tựu trí huệ tối cao. Chúng ta là người tu hành cần gì phải đi tìm cầu không, tự tính vốn không, không thể nắm bắt được, ngay cả không cũng là do vọng tưởng biến hiện. Hóa ra Bồ Tát Đại thừa không phải đợi làm không vọng tưởng mới chứng đạo, mà là dùng bát nhã quán chiếu, thấy ngay tưởng tức là không.

Trong Tâm Kinh mà Sư Tôn giảng giải đã chỉ cho chúng ta thấy Bồ Tát Quán Tự Tại đã giảng giải tỉ mỉ về pháp môn bát nhã như thế nào, không gì khác hơn là muốn tất cả chúng sinh buông xả, thực sự buông xả để thực sự giải thoát và thực sự tự tại. Ban đầu Ngài giảng từ tứ diệu đế, cuối cùng lại quy kết về nó. "Vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc", khi phiền não sinh lão bệnh tử đều không còn, thì cần gì đến trí tuệ hay không trí tuệ như một liều thuốc để chữa trị? Và còn có gì là thành bại được mất? "Vô trí diệc vô đắc" - đắc được cái gì? Vốn dĩ không có gì để đắc. "Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa, y bát nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại" - khi tu hành đến bước này, không trí tuệ cũng không đắc, tức là đã chứng được bát nhã. Từ quán mà khởi tu, cuối cùng đã soi thấu, vì thế "tâm vô quái ngại", nghỉ ngơi cũng tốt, làm việc cũng tốt, xuất gia cũng tốt, tại gia cũng tốt, tất cả tâm, tất cả pháp, không hề chướng ngại. Lúc này đối với bất kì cảnh giới nào cũng không còn tâm sợ hãi, không sợ sinh tử, không sợ luân hồi. Chính vì đã ngộ được đại trí tuệ của tự tính bát nhã, nên không còn điên đảo mộng tưởng, rốt ráo Niết bàn, thành tựu Phật quả. Lúc này chúng ta phát tâm bồ đề lớn để giác ngộ chúng sinh hữu tình.

Cuối cùng, Sư Tôn nhấn mạnh rằng toàn bộ kinh này giảng về tính Không, đồng thời mọi người trong quá trình tu tập cũng đã có sự giác ngộ, nhưng cần phải thực chứng nó một cách thấu đáo, đó gọi là thực chứng, thực chứng đến cuối cùng sẽ trở thành khai ngộ. Hành động, lời nói thường ngày của chúng ta có giống Phật không, hãy nỗ lực thực hành "tôi chính là Phật". Nhìn tất cả chúng sinh trong thế gian đều là Phật, đây là bình đẳng không phân biệt, không có tình yêu đặc biệt, cũng không có lòng hận thù đặc biệt. Tự tại chân chính, không có phiền não, không lo không nghĩ, thực hành tư tưởng này mới là chân lý viên mãn nhất. Vì thế mới gọi là "Vô thượng chính đẳng chính giác, A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề".

Ngu đệ tử Đại Bàng vô cùng biết ơn và may mắn được sống cùng thời với Phật, được làm đệ tử của Ngài, tu hành Chân Phật Mật Pháp, lắng nghe Phật pháp, thâm nhập kinh tạng, liễu ngộ chân lý tối thượng. Kết hợp với việc Sư Phật đang giảng giải Kinh Duy Ma Cật càng giúp dễ dàng hiểu được chân đế của trí tuệ bát nhã.

Xin viết một bài thơ ngắn:

Vạn tượng vốn không tướng, Tâm cảnh tự thanh minh. Giác ngộ ngay hiện tại, Liễu ngộ tức bồ đề. Thế gian như ảo ảnh, Khổ lạc đều tùy duyên. Không có đều vô ngại, Tự tại quán tự tại.

Đệ tử kính chúc Sư Tôn Sư Mẫu Phật thể an khang, trường thọ trụ thế, hằng chuyển pháp luân, phổ độ chúng sinh, đệ tử thành tâm thỉnh Phật trụ thế! Ngu đệ tử Liên Hoa Đại Bàng đảnh lễ kính bái. Ngày 12 tháng 6 năm 2024.

41. Cảm nhận thiền định

Sư Tôn Liên Sinh Hoạt Phật tôn quý và kính yêu nhất,

Phật pháp của thầy thật vô biên, thật không thể nghĩ bàn! Thật đáng tán thán biết bao! Mỗi lần con tham dự pháp hội Hộ Ma do thầy chủ trì, con đều tán thán không ngớt!

Vào lúc 6 giờ tối Chủ nhật ngày 3 tháng 3 theo giờ Đông Bắc Hoa Kỳ, sau khi con tham dự trực tuyến pháp hội Hộ Ma Trường Thọ Phật - Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Pháp Vương giảng Kinh Duy Ma Cật ngày 3 tháng 3 năm 2024, tâm con vẫn còn dâng trào! Tán thán không ngừng! Vì thế con lại hứng khởi viết thư đến thầy!

Trước khi viết thư đến thầy, trước tiên con xin thành tâm đảnh lễ tri ân. Kính chúc thầy thân thể khỏe mạnh! Trường thọ trụ thế!

Vào ngày mùng 3 tháng 3, lúc 6 giờ tối theo giờ Đông Bắc Hoa Kỳ, con và sư huynh như thường lệ đã đúng giờ ngồi trước màn hình máy tính, tham dự buổi giảng Kinh Duy Ma Cật (pháp hội Hộ Ma Trường Thọ Phật) của thầy.

Trong lúc nghi lễ Hộ Ma đang diễn ra, khi bàn tay Phật của thầy đang nhẹ nhàng, biến hóa vô cùng, diễn hóa những thủ ấn pháp lực vô biên, triệu thỉnh chư vị Trường Thọ Phật Bổn tôn, chư Bồ Tát vũ trụ, chư vị Không Hành Mẫu, trong tích tắc, con bỗng như bị điện giật, trong tâm chợt cảm thấy "vụt" một cái, liền nhập định ngay lập tức!

Con ngồi bất động như một ngọn đồi nhỏ. Tuy nhiên, thật bất ngờ là sư huynh ngồi bên cạnh tưởng con ngủ gật nên đã dịu dàng, nhẹ nhàng dùng tay đẩy chân trái con mấy cái.

Con miễn cưỡng xuất định. Con tưởng rằng trạng thái nhập định ngắn ngủi tuyệt vời này đã kết thúc. Con vẫn tập trung chú ý vào pháp hội Hộ Ma do thầy chủ trì như chưa có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên thật bất ngờ, con lại nhập định một lần nữa!

Khi pháp hội Hộ Ma kết thúc, khi thầy bắt đầu khai thị, trong lúc con đang chăm chú lắng nghe lời khai thị của thầy, bỗng nhiên con đang bình thường thì mở mắt và lại nhập định!

Lần nhập định này, dường như đã được định sẵn, hơn nữa còn như có một "tha lực" vô hình đang chờ đợi con, nhất định phải hợp nhất với con, ban cho con sự tương ứng! Thật vô cùng, vô cùng thù thắng và vô cùng, vô cùng không thể nghĩ bàn!

Điều không thể nghĩ bàn hơn nữa là, toàn bộ khí trong cơ thể con như vạn ngựa phi nước đại, như sóng to gió lớn! Không ngừng ma sát mạnh mẽ, cuộn trào, tuần hoàn bên trong cơ thể con; tê tê, vô cùng thoải mái...!

Luồng khí này đi lên qua trung mạch, lên đến đầu và đỉnh đầu, rồi lan tỏa xuống hai cánh tay đến tận đầu ngón tay, sau đó từ từ lan tỏa xuống hai chân đến tận lòng bàn chân, cảm giác ấm áp và thoải mái đó thật vô cùng không thể nghĩ bàn và khó tin đến nỗi không thể diễn tả bằng lời!

Điều còn khó diễn tả hơn nữa là, khi con như tảng đá giữa núi rừng, tứ chi bị trói chặt, cứng như sắt, nhưng toàn thân lại nhẹ như lông hồng, thư thái như chim én ngồi đó, ngồi đó, đắm chìm trong cảnh giới vô ngã của Tam ma địa, con dần dần không còn là chính mình nữa, mà trở thành một vị Phật Bồ Tát sắc đỏ trang nghiêm vô cùng, sống động như thật, khoác thiên y lụa là chồng lớp, và toàn thân con tỏa hào quang rực rỡ! Con vừa kinh ngạc vừa tán thán!

Con chú tâm lắng nghe rõ ràng pháp hội Hộ Ma do thầy chủ trì cho đến khi kết thúc, đến lúc thầy chuẩn bị chào tạm biệt các đệ tử trực tuyến, con mới bất đắc dĩ phải xuất Tam ma địa để chào tạm biệt thầy.

Tuy nhiên, thật bất ngờ là sau khi con xuất định và chào tạm biệt thầy, khi con đang tràn đầy pháp hỷ đối diện đàn thành và thành tâm cảm ơn tất cả chư Phật Bồ Tát, trong tích tắc, con lại lập tức biến thành một vị Phật Bồ Tát sắc đỏ vô cùng trang nghiêm, sống động như thật; và đôi tay con tự động lặp đi lặp lại thủ ấn pháp giới định của Bổn tôn Hộ Ma (Trường Thọ Phật) mà thầy vừa mới chủ trì xong! Thật vô cùng không thể nghĩ bàn!

Con đã thật sự trải nghiệm, chứng thực được điều thầy đã từng khai thị: "Tương ứng một vị, mọi vị tương ứng" quả thật không sai!

Vì vậy, sau khi con nhất tâm bất loạn theo thầy học Phật, tích cực tu học, tu tâm dưỡng tính, nỗ lực kiên trì thực hành thiền định, thực tu Chân Phật Mật Pháp của thầy và từng giây từng phút tưởng nhớ đến Căn bản Truyền thừa Thượng sư là thầy, cầu xin thầy trụ đỉnh, mà được may mắn tương ứng với Địa Tạng Vương Bồ Tát, Đại Huyễn Hóa Võng Kim Cang, Thời Luân Kim Cang, Cao Vương Quan Thế Âm Bồ Tát cùng Căn bản Truyền thừa Thượng sư - Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật; và nay lại được tương ứng với Trường Thọ Phật!

Con cũng thật sự trải nghiệm được điều thầy đã dạy: "Tu hành có cái gọi là tự lực và cũng có cái gọi là tha lực".

Và con đã may mắn như vậy đó, vừa nương vào tự lực của bản thân, vừa được tha lực từ bi gia trì của chư Phật Bồ Tát; lần này, sau khi tham dự pháp hội Hộ Ma Trường Thọ Phật - Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Pháp Vương giảng Kinh Duy Ma Cật ngày 3 tháng 3 năm 2024 do thầy chủ trì với pháp lực vô biên, thù thắng, con lại may mắn được hợp nhất, tương ứng với Trường Thọ Phật!

Con càng thật sự trải nghiệm được điều thầy viết trong văn tập số 155 "Lưu vực ánh trăng", phần "Đi về cõi Ta Bà", thầy hỏi Phật: "Có được thấy Phật chăng?" Phật đáp: "Nhất tâm bất loạn, ắt được thấy Phật."

Sau đó, thầy viết trong sách: "Điều thầy muốn nói với mọi người là, để được diện kiến Phật, được nghe Phật thuyết pháp khai thị, chỉ cần nhất niệm, nhất tâm, đây là diệu lý tối thượng thừa, đây là sự tương ứng chân thật nhất, rốt ráo nhất." Đó là lời dạy chân thật không hư giả.

Hiện nay, con sống trên con đường học Phật rộng lớn tràn ngập ánh sáng vàng, không phiền não, không lo âu, vui vẻ tự tại, tâm hồn thư thái! Con vô cùng, vô cùng biết ơn! Con vô cùng, vô cùng tán thán!

Thánh Tôn Liên Sinh Hoạt Phật tôn quý và kính yêu nhất, Con theo thầy học Phật hơn 30 năm đến nay, con vô cùng biết ơn thầy không thể báo đáp! Thầy thật sự không thể nghĩ bàn! Thầy thật sự có pháp lực vô biên đại vô úy! Vì có thầy, hôm nay, con mới được sống trong sự biết ơn và tán thán! Con chân thành biết ơn thầy! Và chân thành cầu chúc thầy thân thể khỏe mạnh! Vạn thọ vô cương! Trường trụ thế gian cùng Sư Mẫu thân thể khỏe mạnh! Tinh thần sảng khoái! Cuộc sống vui vẻ!

Ngu đệ tử Liên Hoa Thái Hồng trợ giảng đảnh lễ chắp tay tạ ơn. Viết ngày 25 tháng 3 năm 2024. Vermont, Đông Bắc Hoa Kỳ.

(Hết.)

Mục lục