Cảnh giới mới của Phật Vương
Văn tập số: 120 Xuất bản năm: N/A Tác giả: Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Biên dịch: Ban Biên dịch và Truyền thông Upala Việt Nam
🔎 Văn bản đang trong quá trình hiệu đính!!!
Lời mở đầu
Huyền cơ sâu xa chẳng thể đo lường Thập phương Phật khai sáng
Đêm khuya ngày 22 tháng 7 năm 1996, tôi đã được chư Phật mười phương khai sáng, rằng tôi cần viết cuốn sách này, tên sách là "Cảnh giới mới của Phật Vương". Cuốn sách này là những khai sáng của thập phương Phật. Cuốn sách này được thập phương Phật cùng tán thán. Cuốn sách này có huyền cơ sâu xa chẳng thể đo lường.
Cuốn sách này sẽ hé lộ những bí mật không thể nói cho người khác biết. Những bí mật này người bình thường cũng chưa từng được nghe qua, và từ trước đến nay cũng chưa có ai từng nói đến.
Thế nhưng, tôi hoàn toàn không hy vọng sự xuất bản cuốn sách này sẽ tạo ra sự phiền nhiễu đối với một số nhân vật nào đó. Tôi chỉ hy vọng rằng sau khi tôi viết cuốn "Cảnh giới mới của Phật Vương", mọi người hãy bình tâm tịnh khí mà nghiên cứu tỉ mỉ, tôi hoàn toàn không muốn tạo nên sự tổn thương đối với một số nhân vật nào đó. Đây là ý định gốc của tôi.
🌟
Cuộc đời này của Liên Sinh Hoạt Phật
Tăng nhân tôi năm nay 52 tuổi. Tôi thường nghĩ, cuộc đời này tôi đến thế giới Ta Bà để làm gì? Tôi (Hoa Quang Tự Tại Phật) là làm cái thá gì? Tu hành giác ngộ thành Phật là cái việc gì chứ? Cảnh giới thần thông biến hóa thần kì như thế nào? Mục đích cuộc đời này nằm ở đâu? Vì sao gọi là "Hoa Quang Tự Tại"? Huyền cơ của cuộc đời này nằm ở đâu?
Tôi từng viết bài kệ: Tăng nhân nay đã năm mươi hai Tùy duyên hợp tan sống qua ngày Bạn học thuở xưa nay tứ tán Giờ này năm sau còn không đây?
Mặc dù có cảm thán như vậy, nhưng trong cuốn sách "Cảnh giới mới của Phật Vương" này, tôi sẽ công bố hoàn toàn các câu trả lời, sẽ không còn giữ chúng lại nữa.
🌟
Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh
Trong cuốn "Mạn đàm linh cơ thần toán", tôi có nhắc đến vị linh sư vô hình của mình là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, ngài là vị thầy đầu tiên của tôi sau khi tôi thông linh.
Vị thầy ẩn hình này, sự thật là tôi có biết diện mạo thật của ngài, chỉ là trong văn chương của mình thì tôi vẫn khéo léo để cho ngài ẩn hình.
Tôi cố ý dùng những cách gọi như "Tam Thanh Giáo Hạ", cố ý dùng từ "Linh sư", cố ý dùng "Thần tiên thượng thừa" để ẩn giấu hình ảnh của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh.
Tôi lại còn từng nói rằng: "Giả dụ tôi công bố diện mạo thật của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, thì giới Phật giáo không biết sẽ có bao nhiêu người ngất xỉu?" Hôm nay, tôi muốn khiến cho những nhân vật trong giới Phật giáo phải ngất xỉu, thở hổn hển không ngừng.
🌟
Liên Hoa Đồng Tử
Buổi tối đầu tiên sau khi tôi thông linh. Năm đó tôi 25 tuổi.
Tôi đã đi du lịch thiên thượng giới: Ở nơi đó, tôi đã gặp rất nhiều vị Phật Bồ Tát, họ và tôi cùng cúi đầu chào nhau, nhưng tôi chẳng nhận ra một vị nào cả. Tôi nhìn thấy những đóa hoa sen to như những chiếc bánh xe, hoa sen cũng phân ra làm nhiều màu sắc. Trên mỗi bông hoa sen đều có một vị đồng tử đang đứng, trên tay mỗi đồng tử lại cầm một bông hoa sen màu sắc khác nhau.
Khi tôi đang đi du lịch, tôi thật sự nghe thấy một âm thanh đến với tôi: "Ngài chính là Liên Hoa Đồng Tử!"
Chính là âm thanh này đã khiến tôi kiên trì với sự nghiệp tu hành của mình, từ năm 25 tuổi cho đến năm nay tôi 52 tuổi, ngót nghét đã 27 năm rồi. Hôm nay, Liên Hoa Đồng Tử là ai?
Tôi sẽ nói cho mọi người biết: Thế nhân vẫn không ngớt tụng niệm tên tôi, xưng hiệu của tôi, nhưng lại không biết tôi đang đứng trước mặt họ. Bọn họ một mặt niệm Phật hiệu của tôi, một mặt thì chửi tôi, một mặt lại rời xa tôi.
Cái thế giới này thật là kì diệu quá, thật là chẳng hiểu ra sao cả, thật là chẳng thể tưởng tượng nổi rồi. Nhưng tôi cũng làm sao có thể trách chúng sinh trong thiên hạ được, bởi vì trong đám chúng sinh, ai có được thiên nhãn?
🌟
Thiên hạ đệ nhất
Phật pháp của tôi là đệ nhất thiên hạ. Tôi đã giác ngộ và thành tựu, tôi chính là Hoa Quang Tự Tại Phật, đời này kiếp này không người nào có thể vượt trội hơn tôi, tà ma ngoại đạo có kết thành một bè cũng chẳng thể chạm tới tôi được.
Trong cuốn sách này, tôi sẽ trực tiếp thâm nhập vào những ý chỉ của Phật.
Đây là: Cầu vồng sáng vừa hiện Vạn áng mây cuộn bay. Hư không chẳng gián đoạn Chúng sinh, mau quy y.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn Sheng-yen Lu
17102 NE 40th CT REDMOND WA 98052 U.S.A
01. Diện mạo thật của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh
Đấng thần bí trong gương
Trong cuộc đời tu hành của tôi, vị sư phụ đầu tiên xuất hiện là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh. Vị thầy đó là một linh sư ẩn hình, thầy đã hướng dẫn tôi học đạo suốt ba năm.
Cũng chính vì danh húy Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh này mà tôi đã từng bị độc giả chửi bới. Độc giả chửi tôi rằng tại sao mà cứ phải Tiên Sinh này nọ cho dài dòng, lẽ nào không thể gọi một câu là sư phụ hay sao?
Tôi từng nghiền ngẫm rất kĩ về hai chữ "Tiên Sinh". Vốn dĩ, hai chữ Tiên Sinh là một cách xưng hô vĩ đại nhất, tôn quý nhất trong thời cổ đại, không giống như cách xưng hô tiên sinh với nghĩa là "ông" mà con người hiện đại ngày nay dùng ở khắp nơi. Do vậy, ngày xưa, người được gọi là Tiên Sinh không phải như "tiên sinh" của con người hiện đại, mà là có ý nghĩa tôn quý nhất như trong thời các triều đại cổ, độc giả xin đừng hiểu lầm.
Tam Sơn Cửu Hầu được gọi là Tiên Sinh, nguồn gốc của việc này tự bản thân nó đã chính là một điều phi phàm trong sự phi phàm, bởi vì vào thời các triều đại cổ, rất ít người được gọi là Tiên Sinh, thực sự là rất ít.
🌟
Mọi người đoán thử câu đố
Sau khi tên gọi Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh xuất hiện trong những cuốn sách tâm linh mà tôi viết thì đã làm dấy lên những cuộc tranh luận lớn. Thế là mọi người mới tìm cách đoán xem đó là ai.
Một vị trưởng lão gửi cho tôi một cuốn sách tên "Mật truyền vạn pháp quy tông", nội dung nói về Lục giáp thần thư, Đinh Giáp đại pháp bí mật trong Kinh Dịch, Để Khâm Tập Thiên, Địa, Nhân Mật Chỉ, vv.v… trong đó có Tam Sơn tổ sư đề thuật thơ, và thần vị của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh.
Trong cuốn "Mật truyền vạn pháp quy tông", có chú có thuật, có một số câu chú vẫn là "Phụng Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, cấp cấp như luật lệnh". Tôi vì chuyện này mà từng hỏi linh sư. Linh sư đáp: "Tên gọi trong thế gian giống nhau thì có gì là lạ đâu, ví dụ con tên là Lư Thắng Ngạn, lẽ nào trên đời chẳng có người nào khác tên là Lư Thắng Ngạn sao?"
Tôi nghĩ một lúc thấy cũng có lí. Trước đây khi tôi còn nhỏ, đi học tại Cao Hùng, Tả Doanh, cũng có một người tên là Lư Thắng Ngạn. Lư Thắng Ngạn này rõ ràng không phải là Lư Thắng Ngạn tôi đây. Hơn nữa, lại càng nhiều người được đặt tên là Thắng Ngạn, rất nhiều người Nhật Bản thích lấy tên gọi là Thắng Ngạn.
Do vậy, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh trong "Mật truyền vạn pháp quy tông" hoàn toàn không phải là linh sư của tôi - Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh.
🌟
Chín con khỉ già ở trên ba ngọn núi
Có một pháp sư tự nhận là thông linh đã đặc biệt cảnh cáo tôi rằng đừng có chạm vào ma đạo, theo như ý nghĩa cái tên Tam Sơn Cửu Hầu này cho thấy thì đây chính là chín con khỉ già đã đắc đạo sống tại ba ngọn núi. [ ND: Tam Sơn nghĩa là ba ngọn núi, Cửu Hầu nghĩa là chín con khỉ ]
Vị pháp sư này còn có pháp tu luyện của Tam Sơn Cửu Hầu: "Luyện lão thân linh ứng pháp." "Lão thân phục đan sổ pháp." "Triệu thỉnh lão thân phù chú." "Lão thân phi thiên thần thuật."
Tam Sơn Cửu Hầu có nghĩa là chín con khỉ sao? Vì điều này mà tôi ngớ người ra. Khi đó, tôi đã có năng lực đại thông linh rồi. Tôi nhờ vào "Diêu Trì Kim Mẫu vân quang pháp", đã đến cõi trời thứ chín, đã đặt chân đến nơi sâu nhất trong động tiên, đến những tầng gác tuyệt đẹp, đến những cung điện châu ngọc bảo bối, đến tận những đình đài ngọc thạch.
Tôi hỏi: "Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là thế nào?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: Đại giác kim tiên không hình tướng Bất sinh bất diệt hóa tam sơn Bản tính chân như vốn hiển nhiên Bao kiếp minh tâm Cửu Hầu sư.
Sau khi tôi xuất định, tôi đã biết rằng Tam Sơn Cửu Hầu vốn chẳng phải là mấy con khỉ già đã đắc đạo ở ba ngọn núi kia!
🌟
Điện Cửu Hầu
Tại miền nam Đài Loan có một ngôi chùa, tên chùa là "Cửu Hầu Điện". Cửu Hầu Điện có một một đạo nhân họ Trần, bên ngoài tự xưng là sư huynh đệ đồng môn của tôi. Bởi vì ông ấy cũng bái Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh làm thầy.
Tôi chưa từng đến Cửu Hầu Điện. Tôi cũng không biết đạo nhân họ Trần theo học công phu gì. Bởi vậy, ông ta muốn nhận tôi là sư huynh đệ đồng môn, tôi thật chẳng dám nhận. Nhận tới nhận lui, tôi sinh ra cảm giác sợ bị lợi dụng. Xin đừng trách tôi, tôi là kiểu người có gì nói nấy.
🌟
Lão tiên sinh họ Lý Có một tiên sinh già họ Lý, là người kiêm tu Đạo và Phật, sáng lập tông phái, tự xưng là sư phụ của Lư Thắng Ngạn.
Người trong môn phái hỏi ông: "Vì sao Lư Thắng Ngạn lại là đệ tử của ông được?" Ông đáp: "Vì tôi chính là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh." Người trong môn phái hỏi: "Thế sao Lư Thắng Ngạn lại không đến nhận ông?" Ông đáp: "Tôi chỉ cần âm thầm vận thần công thì đã có thể đi dạy pháp cho anh ta rồi. Khi tôi phát công thì là vô hình vô tướng, anh ta chỉ lĩnh thọ công pháp của tôi chứ không hề biết tôi." Thế là người trong môn phái viết thư đến muốn tôi nhận tổ quy tông.
Những người muốn tôi nhận tổ quy tông như thế này không chỉ có mỗi mình lão tiên sinh họ Lý, ngoài ra còn có Nam Cung tiên sinh, Châu lão tiên sinh,… đều muốn tôi nhận tổ quy tông. Bọn họ đều tự xưng là Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh. Hoàn toàn vớ vẩn, sao mà tôi lại có lắm sư phụ đến thế chứ.
🌟
Diện mạo thật của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh
Tôi chưa từng bao giờ nghĩ rằng sẽ đề cao thân phận của sư phụ mình đến mức cao không gì có thể cao hơn, rồi nhờ vào thân phận cao của sư phụ để mà đề cao thân phận của chính đệ tử. Tôi cũng chưa từng bao giờ nghĩ rằng linh sư vô hình Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh của mình có thân phận cao đến mức như vậy, cao đến mức khiến người khác cảm thấy bất khả tư nghì.
Thế nhưng, nếu như quay đầu lại mà ngẫm nghĩ một chút, thân phận lai lịch của chính đồ đệ là bản thân tôi thì lại cảm thấy việc này chẳng có gì là quá đáng cả, trong việc này cũng có ý nghĩa bí mật thâm sâu, ở đây là cả đôi bên đều bổ sung cho nhau.
Trên thực tế, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh không phải chỉ có một vị, Tam Sơn là ba vị, Cửu Hầu là chín vị, danh hiệu này đại diện cho 12 vị. Mặc dù là 12 vị, tuy nhiên trong số này có các vị mang tên giống nhưng tôn cách lại khác nhau. Trên phương diện này, sau này tôi sẽ thuật lại tỉ mỉ. Trong số các vị Phật Bồ Tát của Phật giáo, ví dụ kiểu này vô cùng nhiều.
Còn bây giờ, trước tiên tôi sẽ vén bức màn về diện mạo thật của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, rồi tiếp đó sẽ nói về lý do vì sao mà các vị lại như thế.
Tam Sơn: Pháp thân Phật --- Tỳ Lô Giá Na Phật. Báo thân Phật --- Lô Giá Na Phật. Ứng thân Phật --- Thích Ca Mâu Ni Phật.
Cửu Hầu: (Chính là chín vị trong cung điện trung tâm của Thai Tạng Giới)
- Trung ương là Đại Nhật Tôn --- Biện Chiếu Kim Cang.
- Đông phương là Bảo Tràng Như Lai --- Phúc Tụ Kim Cang.
- Nam phương là Khai Phu Hoa Vương Như Lai --- Bình Đẳng Kim Cang.
- Tây phương là Vô Lượng Thọ Như Lai --- Thanh Tịnh Kim Cang.
- Bắc phương là Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai --- Bất Động Kim Cang.
- Đông nam là Phổ Hiền Bồ Tát --- Chân Như Kim Cang.
- Tây nam là Văn Thù Bồ Tát --- Chân Như Kim Cang.
- Tây bắc là Quan Âm Bồ Tát --- Chính Pháp Kim Cang.
- Đông bắc là Di Lặc Bồ Tát --- Tấn Tật Kim Cang.
Cần thấy rằng để biết Tam Sơn Cửu Hầu tổng cộng có 12 vị, kì thực rất đơn giản. Khi các vị hạ giáng, dựa trên những cảm nhận của tự thân, từ lâu tôi đã phân biệt được rồi. Pháp khác nhau, âm khác nhau, lực đạo khác nhau, tiếp xúc khác nhau, khí khác nhau, v.v… tôi đã sớm biết các vị là khác nhau rồi.
Khi tay tôi kết "Tam Sơn ấn", trì chú: "Nam mô san man tô. Mu đa nam. Pua." Tôi liền chứng nhận được rằng, ấn khắc là ấn khắc của Phật Thích Ca Mâu Ni, chú ngữ chính là tâm chú của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Thủ ấn của Phật Thích Ca Mâu Ni là Tam Sơn ấn, chính là Tam Sơn của Tam Sơn Cửu Hầu, Tam Sơn chính là ba thân Pháp thân - Báo thân - Ứng thân. Tôi lại nhớ đến câu nói của Diêu Trì Kim Mẫu: Đại giác kim tiên không hình tướng, Đại Giác Kim Tiên vào quãng thời gian đó chính là chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni.
Mỗi lần Phật Đà hạ giáng, tay của tôi tự động kết Tam Sơn ấn, trong miệng tụng chú: "Nam mô san man tô. Mu đa nam. Pua."
Tiếp theo, khi nào thì tôi biết Cửu Hầu là năm vị Phật và bốn vị Bồ Tát của Thai Tạng Giới (chín vị trong cung điện trung tâm)? Bởi vì khi nhận sự gia trì, tôi thấy có sự phân chia thành ánh sáng ngũ sắc, trắng, đỏ, vàng, xanh lục, đen.
Rồi bốn vị Bồ Tát dạy tôi về Tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả. Đại từ là Di Lặc. Đại bi là Quan Âm. Đại hỉ là Văn Thù. Đại xả là Phổ Hiền.
Những cảm nhận này đều vô cùng vi tế, nhưng vẫn có thể lần lượt thể hội được từng cái một. Sau này, tôi có một lần có cơ hội lễ bái mandala Thai Tạng Giới, từ chín vị trong cung điện trung tâm phóng ra một lực hút vô cùng vô tận. Hơn thế, đúng vào lúc đó, nơi tim tôi (trái tim xác thịt) ở chính giữa có biết bao mạch ánh sáng tỏa sáng, cũng phóng ra lực hút liên tiếp, hai lực ở trong không trung gặp nhau, hòa nhập vào lẫn nhau. Hai khối lực này không ngờ lại giống nhau, là hai khối pháp lực, có sợi trắng, có vòng mảnh, có ống thủy tinh, là ở xung quanh của Thai Tạng. Do vậy, tôi đã chứng nhận và biết được, năng lượng của tôi đến từ chín vị trong cung điện trung tâm của Thai Tạng Giới. Cửu Hầu chính là Ngũ Phật Tứ Bồ Tát một trăm phần trăm, tôi đã có được lực gia trì của Ngũ Phật Tứ Bồ Tát.
Từng có một hành giả chỉ ra rằng pháp lực của tôi đến từ mandala Kim Cang Giới. Điểm này không giống với chứng nghiệm của tôi, tuy nhiên, chứng nghiệm của hành giả cũng có khả năng sẽ có sai sót, bởi vì Kim Cang Giới, Thai Tạng Giới kì thực là không hai không khác, hai giới Kim - Thai hòa lẫn vào nhau.
Thai Đại Nhật Như Lai - Kim Đại Nhật Như Lai. Thai Bảo Trường Như Lai - Kim A Súc Như Lai. Thai Khai Phu Hoa Vương Như Lai - Kim Bảo Sinh Như Lai. Thai Vô Lượng Thọ Như Lai - Kim A Di Đà Như Lai. Thai Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai - Kim Bất Không Thành Tựu Như Lai.
🌟
Hoa Quang Tự Tại Phật
Nếu như những bằng chứng này vẫn là chưa đủ, tôi có thể nói cho mọi người biết rằng, tôi đã từ một người bình thường tu trì mà thành tựu được Phật quả Hoa Quang Tự Tại Phật.
Hoa Quang Tự Tại Phật là Phật hiệu mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã thật sự thọ kí cho tôi, trong sách của tôi cũng đã ghi lại sự việc chân thực này. Tôi không biết nói dối, nếu tôi có vọng ngữ thì toàn bộ 120 cuốn sách mà tôi đã viết đều là nói khoác hết.
120 cuốn sách, 27 năm tu hành tương đương với tinh hoa của cả một đời tôi. Tôi bảo đảm với mọi người rằng Phật Thích Ca Mâu Ni đã thọ kí cho tôi danh hiệu Hoa Quang Tự Tại Phật, việc này là tuyệt đối chân thực chính xác, rõ ràng rành mạch. Chính là trong cuộc đời này tôi đã bước chân lên đỉnh cao thành Phật.
Kể từ khi học Phật tu hành cho đến nay, tôi thừa nhận rằng trí huệ mình tăng trưởng tương đối nhanh, nói cách khác là: Nội chứng trí bản thể tức là Không. Bản tính là ngũ quang thường chiếu. Sự sáng chói của đại bi phổ chiếu.
Tôi đã tu xuất Tứ quang minh, là pháp tính hiện ra vô lượng ánh sáng. Tôi đã chứng và nhận được sự tăng trưởng về ánh sáng, chứng được trí huệ tràn đầy ánh sáng, pháp tính sáng chói vô cùng tận.
Nhờ Chân Phật Mật Pháp mà tôi tu xuất quang minh phong mạch, đạt đến cảnh giới trí huệ thanh tịnh, thân - quang - sát thổ đều có thể ngay thời điểm đó hiện lên trước mắt, lúc đó tất cả những cảnh giới mê huyễn không còn xuất hiện nữa.
Tôi đã đạt thành tựu Tam thân ngũ trí của Như Lai: Tôi lĩnh hội được rằng, pháp tính rời xa hết thảy hí luận, chính là pháp thân, bản thân hiển hiện sự không còn bám chấp chính là báo thân, xuất hiện đủ mọi cảnh giới chính là ứng thân.
Còn nữa, rời xa hết thảy hí luận là pháp giới thể tính trí, hiển lộ sự không còn chướng ngại chính là đại viên mãn kính trí, luôn trụ trong pháp vị bình đẳng chính là bình đẳng tính trí, hiển hiện ngũ quang vô nhiễm chính là diệu âm sát trí, những gì có thể lấy (căn giới) đều hóa thành ánh sáng tức là thành sở tác trí.
Huệ lực bát nhã của tôi sớm đã phi phàm.
Đương nhiên tôi biết Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là tam thân của Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngũ Phật Tứ Bồ Tát của cung điện trung ương của Thai Tạng Giới.
Đây cũng chính là điều được nói đến trong kinh Pháp Hoa: "Phật thành tựu pháp, điều nan giải hi hữu số một là, duy chỉ có Phật và Phật, do vậy có thể cứu hết chư pháp thực tướng. Cái gọi là chư pháp thực tướng, như là tướng, như là tính, như là thể, như là lực, như là tác, như là nhân, như là duyên, như là quả, như là báo, như là bản lai cứu cánh."
Tôi là Hoa Quang Tự Tại Phật, tôi đương nhiên biết diện mạo thật của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh.
🌟
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam và Thượng nhân Tuyên Hóa
Nghiêm túc mà nói, một vị đại cư sĩ mà tôi quen biết đầu tiên từ khi học Phật là cư sĩ Lý Bỉnh Nam (còn gọi là cư sĩ Tuyết Lư). Trong giới Phật giáo, tiếng tăm của cư sĩ Lý rất cao với tư tưởng giảng kinh thuyết pháp, hoằng dương tịnh thổ. Việc tôi quy y Ấn Thuận Đạo Sư là do cư sĩ Lý Bỉnh Nam cử hành nghi thức tam quy y.
Về sau, tôi lại quy y lão pháp sư Lạc Quả, là do ông Triệu Cơ giới thiệu, quy y pháp sư Đạo An là do ông Vương Nhất Chi giới thiệu. Đây là quá trình học Phật của tôi, tạm thời bỏ qua một bên không nhắc đến.
Khi cư sĩ Lý Bỉnh Nam biết tôi thông linh, lại nghe nói đến Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, ông giật thót mình, nói một cách không hề mảy may suy nghĩ: "Xong rồi, Lư Thắng Ngạn nhiễm ma rồi."
Còn bảo: "Ma chỉ cần hút hết tinh khí của Lư Thắng Ngạn xong, một khi rời khỏi Lư Thắng Ngạn thì Lư Thắng Ngạn sẽ chết thôi. Các người xem, Lư Thắng Ngạn sẽ chẳng sống được lâu đâu." (Nguyệt san Bồ Đề Thụ năm đó có một bài viết Bình luận về Lư Thắng Ngạn.)
Sau này, tôi chuyển qua Mỹ sống, cư sĩ Lý Bỉnh Nam nhập niết bàn. Trước khi ông ấy nhập niết bàn, trong thiền định tôi đã gặp cư sĩ Lý Bỉnh Nam, trên thân ông ấy có ánh sáng trắng, ông hướng về tôi nói: "Anh và tôi tương đồng, giống nhau."
Sau khi tôi xuất định, tôi hiểu ra, cư sĩ Lý Bỉnh Nam quả nhiên đã vãng sinh đến Tây phương tịnh độ, nhưng trước khi đi, ông vẫn còn phải cố nói những lời biện bạch cuối cùng đối với những lời phỉ báng nhắm vào tôi năm đó. Tôi thấy nếu ông ta không bào chữa thì e rằng cũng chẳng thể ra đi được.
Thử nghĩ mà xem, đại cư sĩ Lý Bỉnh Nam, là một đại thiện tri thức giảng kinh thuyết pháp, vào năm đó, chẳng ngờ ông ấy vẫn chẳng nhìn ra tôi là ai, cũng không nhìn ra được Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là ai.
Đợi cho đến lúc vãng sinh rồi, ông biết rằng không đến gặp tôi không được, thế nên ông vẫn đến gặp tôi để mà giải quyết cái công án giữa chúng tôi năm đó.
Vì sao mà Lý Bỉnh Nam lại nói: "Anh và tôi tương đồng, giống nhau." Câu nói này có ý gì? Trong những cuốn sách sau này tôi sẽ nói lại cho rõ.
Bây giờ lại nói tiếp về thượng nhân Tuyên Hóa. Thượng nhân Tuyên Hóa còn được biết đến với tên gọi là Độ Luân pháp sư, đã xây dựng thành phố Vạn Phật ở ngoại ô bang California, ông là đệ tử dưới pháp môn của lão hòa thượng Hư Vân. Trong bốn pháp Thiền, Tịnh, Mật, Luật thì ông tu hành theo Thiền là chính, nghiêm chỉnh giữ giới luật, tam y không bao giờ rời thân, ngày ăn một bữa cơm, quá giờ ngọ sẽ không ăn, đêm không ngủ nghỉ.
Tuy nhiên, ai cũng biết rằng thượng nhân Tuyên Hóa chỉ trích Mật giáo. Ông phỉ báng tổ sư của Mật giáo - ngài Milarepa là đại thiên ma, xuất bản cuốn sách "Phá tà hiển chính, nói vì chúng sinh", công kích Milarepa. Ông phỉ báng Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 Karmapa, viết bài đăng trong nguyệt san của thành phố Vạn Phật. Ông phỉ báng tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn).
Tôi và thượng nhân Tuyên Hóa chỉ có một lần gặp mặt, đôi bên nói chuyện. Trong cảm nhận của tôi thì vị pháp sư này cao ngạo và thô tục, giảng pháp thì nhạt nhẽo chẳng có chút pháp vị nào, tôi chẳng nhìn ra ông ta có chút pháp lực nào, thậm chí trực giác cũng cho tôi thấy rằng ông ta tục không chịu nổi.
Nhưng, điều khiến tôi cảm thấy kì lạ là, một pháp sư phàm phu thế tục như vậy, vì sao lại xây dựng nên được cục diện của thành phố Vạn Phật. Cho đến khi tôi nhìn ra được phía sau lưng ông có một vị Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát đang đứng. Vị này có màu đen, khi đến khi đi. Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát được tôn làm Vương Tam Muội, nếu như có người nào đắc được Vương Tam Muội thì chắc chắn sẽ có nhiều người theo.
Vì lý do này mà thượng nhân Tuyên Hóa, nhờ có Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát thường xuyên tới lui, nên rất nhiều người đã đi theo ông ta. Trên biểu hiện bề ngoài thì pháp sư Độ Luân có pháp lực thần thông, nhưng làm một hồi thì tôi mới biết là có Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát âm thầm giúp đỡ ông một tay.
Được thôi, tôi nói thượng nhân Tuyên Hóa - pháp sư Độ Luân là phàm phu tục tử, thế vì sao Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát lại theo hỗ trợ ông ta chứ! Hóa ra, thượng nhân Tuyên Hóa mặc dù thô tục nhưng lại thuộc nằm lòng một bản kinh. Đó chính là bản kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm là một kinh điển trọng yếu trong hệ thống Chân Thường, lời văn lưu loát trong sáng. Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh có viết: "Nếu có người nào đọc thuộc được kinh này thì tất cả tam muội đều theo tháp tùng."
Do thượng nhân Tuyên Hóa tôn sùng kinh Lăng Nghiêm nên Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát mới vội đến để hộ trì cho ông ta, đạo lý này cực kì rõ ràng.
Tôi biết thượng nhân Tuyên Hóa chưa hề thực sự tiến nhập vào Tam Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Vương Tam Muội, chưa giác ngộ viên mãn "Bản Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tính".
Khẩu nghiệp của ông ta là nặng nhất. Ông ta không chỉ chỉ trích Mật giáo, ông ta cũng nói Tinh Vân đại sư là hòa thượng giả, ông ta không những chửi người ngoài mà cũng chửi cả đệ tử của mình. Tính cách của ông ta hỗn tạp đủ mọi phiền não trần tục.
Ở Seattle, ông ta có một đệ tử tên là Sofia, mấy năm trước cô này nói với tôi rằng ông ta mắc bệnh rồi, muốn tôi dùng thiên nhãn để quan sát. Tôi nhìn thấy trên người ông ta có hai khối khí đen. Một khối khí chạy hướng lên trên, đi qua tim đến họng. Một khối khí chạy hướng xuống dưới, đi qua vùng bụng xuống đến thận.
Sau đó, thượng nhân Tuyên Hóa viên tịch. Báo cáo của bác sĩ nói rằng thượng nhân Tuyên Hóa chết do bị ung thư tuyến bạch huyết, nhưng, hai quả thận của ông ta từ lâu đã mất hết chức năng rồi, kì thực từ lâu thận đã hỏng rồi. Báo cáo của bác sĩ đã chứng minh sự quan sát bằng thiên nhãn của tôi là đúng.
Thượng nhân Tuyên Hóa chết rồi, chết rồi thì cũng mới nhận ra rõ ràng rằng, trên thực tế cũng chẳng thể làm gì được nữa, vì sao như vậy? Bởi vì công án phỉ báng tôi của ông ta vẫn chưa kết thúc, thế nên mới phát sinh ra sự kiện Tam Tào hội thẩm…
Các nhân vật xuất hiện trong buổi Tam Tào hội thẩm này gồm: Đại biểu cho Thiên Tào - Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát. Đại biểu cho Địa Tào - Diêm La Vương Tôn giả. Đại biểu cho Nhân Tào - Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Người bị hội thẩm - thượng nhân Tuyên Hóa và bốn đệ tử của ông ta. Người làm chứng - Liên Hoa Thụ Anh.
Buổi Tam Tào hội thẩm này, Liên Hoa Thụ Anh chứng kiến từ đầu đến cuối, quá trình hội thẩm không cần nhắc lại nữa, tóm lại, kết cục cuối cùng là: Tôi ở không gian phía trước phóng quang tiếp dẫn, thượng nhân Tuyên Hóa và bốn đệ tử của ông ta chắp tay, niệm tâm chú của Liên Sinh Hoạt Phật: "Om. Guru. Liansheng. Siddhi. Hum." Theo tôi tiếp dẫn đến Tây phương. Khi sống ông chửi tôi. Chết rồi tôi tiếp dẫn. Việc này là thế nào. Là tính bình đẳng thôi.
Kì thực, có sự việc tiếp dẫn này cũng là vì tôi nể mặt Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát, Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát là chủ nhân của thượng nhân Tuyên Hóa. Đồng thời, tôi là một vị Như Lai đã đắc chứng "bình đẳng tính trí", đương nhiên tôi cũng chẳng buồn để tâm đến những lời phỉ báng vớ vẩn đó!
Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát đương nhiên cũng biết Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn tôi là ai! Ngài lại càng biết Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là ai! Ngài biết Tam thân của Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngũ Phật Tứ Bồ Tát đều là thầy của tôi, tôi có thể xuất nhập vào thập pháp giới không chút chướng ngại, chính nhờ vào pháp lực này mà từ lâu tôi đã "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn" rồi.
Trước có cư sĩ Lý Bỉnh Nam đưa ra công án, sau có thượng nhân Tuyên Hóa đưa ra công án.
Sư phụ Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh của tôi dạy đạo cho tôi ba năm, việc này chính là "Tam Sơn ánh sương lung linh sáng, Cửu Hầu tường vân chẳng ngừng bay".
Tôi thở dài trước những việc phỉ báng: Gió thổi khói hương khẽ tỏa bay Hồ điệp trong mơ người chẳng thấy Trăng dời bóng hoa lên bức rào Sao hoảng hốt Thốt tiếng kêu, Đâu biết đêm khuya quá nửa rồi!
02. Kiếp trước đời này
Bản Tính Kinh
Phật Thích Ca Mâu Ni có "Bản Tính Kinh" truyền lại cho hậu thế. Cái gọi là "Bản Tính Kinh" chính là chuyên kể về tiền kiếp của Phật Đà, Phật Đà cũng đã từng luân hồi trong lục đạo, ví dụ: Vua Khỉ, Vua Voi, Vua Hươu, Vua Ngỗng,… đều là trong cõi súc sinh. Trong cõi người, Phật Đà cũng từng chuyển thế nhiều lần, ví dụ: Phật Đà bị người đàn bà tên Tôn Đà Lợi phỉ báng.
Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã từng kể về nhân duyên nhân quả của kiếp quá khứ. Phật Đà nói: "Trong rất nhiều kiếp quá khứ, có một thành phố tên là Ba La Nại, có một người sống ở đây tên là Tịnh Nhãn, kiếm sống bằng nghề ca hát diễn trò (chính là nghề diễn viên ngày nay)."
Khi đó, có một người phụ nữ xinh đẹp tên gọi là Lộc Tương, hai người này cấu kết dâm lạc với nhau. Về sau, thấy Lộc Tương có tiền, Tịnh Nhãn âm mưu chiếm đoạt tài sản, đã giết chết Lộc Tương, sau đó đem thi thể cô chôn trong nhà của một người tu đạo đã đắc đạo. Đạo nhân này tên gọi là Lạc Vô Vi Tích Chi Phật.
Tiếp đó, Lạc Vô Vi Tích Chi Phật bị hiểu lầm, bị trói lên lưng lừa để đi nhiễu trên đường cho dân chúng xem, sau đó sẽ bị dùng cung tên bắt chết. Lúc này, lương tâm của Tịnh Nhãn trỗi dậy, tự mình đến nhận tội với quan chủ sự về sai lầm của mình. Cuối cùng, sau khi điều tra, quả nhiên là do Tịnh Nhãn làm.
Còn Lạc Vô Vi Tích Chi Phật vì vô duyên vô cớ mà bị phỉ báng, cảm thấy không muốn ở lại thế gian nữa, bèn ở trước mặt mọi người, phi thân lên hư không, trong hư không ngồi nằm đi đứng. Thế rồi, hoặc từ phần eo trở xuống tỏa khói, từ phần eo trở lên bốc cháy, hoặc từ phần eo trở xuống thì bốc cháy, từ phần eo trở lên thì tỏa khói, hoặc sườn bên trái tỏa khói, sườn bên phải bốc cháy, hoặc sườn bên trái bốc cháy, sườn bên phải tỏa khói, hoặc bụng và lưng bốc cháy tỏa khói, một phần bụng khác thì tuôn ra nước lửa, sườn trái tuôn ra nước lửa, lưng bụng tuôn ra nước lửa.
Cuối cùng là, nhún người ra khói, nhún người ra lửa, nhún người ra nước, rồi ở trong hư không tự thiêu thân diệt độ. (Sự việc diệt độ của Lạc Vô Vi Tích Chi Phật là hiện tượng do tu luyện chuyết hỏa định.)
Phật Thích Ca Mâu Ni nói: Tịnh Nhãn - Là tiền thân vô lượng kiếp của Thích Ca Như Lai. Lộc Tương - Là Tôn Đà Lợi người đã phỉ báng ta.
Phật Đà nói với Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất! Trong vô lượng sinh tử tiền kiếp, ta là một phàm phu tên là Tịnh Nhãn, bởi vì tham tiền tài của một người phụ nữ tên là Lộc Tương mà đã giết hại Lộc Tương, rồi còn gài bẫy Tích Chi Phật, tội này quá nặng rồi. Thế nên trong vố số nghìn năm, thần thức linh hồn đã bị đọa trong địa ngục bùn lầy, rồi bị chịu tội phạt treo trên cây tua tủa gươm đao. Vô số nghìn năm, linh hồn thần thức bị đọa trong khổ sở của đạo súc sinh, vô số nghìn năm linh hồn thần thức bị đọa trong đạo ngạ quỷ chịu khổ. Do vẫn còn dấu vết tàn dư từ tai ương đó mà kiếp này, mặc dù đã tu thành tối thắng Phật Đà, vẫn còn phải chịu sự phỉ báng của Tôn Đà Lợi."
Đoạn trên là tự thuật của Phật Thích Ca Mâu Ni về nhân duyên quả báo của việc bị người phụ nữ Tôn Đà Lợi phỉ báng.
🌟
Kiếp trước đời này
Đương nhiên, Phật Thích Ca Mâu Ni nói về nhân duyên tiền kiếp của bản thân ngài rất nhiều, ngoài sự phỉ báng của Tôn Đà Lợi ra còn có sự phỉ báng của Chiến Già, có nhân duyên của việc đau đầu, có nhân duyên của việc đau lưng, có nhân duyên của việc đau chân, có nhân duyên của hòn đá làm bị thương ở chân, có nhân duyên của bệnh đường ruột, có nhân duyên của việc ăn cỏ ngựa, có nhân duyên bị Đề Bà Đạt Đa phản bội, v.v…
Vì sao tôi lại đưa ra nhân duyên Tôn Đà Lợi phỉ báng, bởi vì trong nhân duyên quả báo này cho thấy nghiệp tội mà Phật Đà đã phạm phải năm đó quả nhiên là rất nặng.
- Giết người - Giết Lộc Tương, nghiệp sát là nặng số một.
- Giết Tích Chi Phật - Tích Chi Phật mặc dù không phải do Phật Đà giết, nhưng cái chết của ông là vì Phật Đà mà chết, là giết người tu đạo, là ngũ nghịch tội.
- Tà dâm - Tịnh Nhãn và Lộc Tương đã gian dâm với nhau.
- Trộm cướp - Cướp tiền bạc của Lộc Tương.
- Nói dối - Vu oan cho Tích Chi Phật.
Do vậy, tôi viết ra ví dụ này là muốn cổ vũ mọi người rằng, rất nhiều kiếp trước, Phật Đà cũng từng phạm nghiệp tội nặng như vậy, nhưng, Ngài vẫn có thể tu thành Đức Phật tối thắng, có thể thấy là chỉ cần sẵn lòng hạ quyết tâm tu hành, bất kể đã phạm nghiệp phạm tội như thế nào đều sẽ có ngày thành Phật. Cho dù là tội ác ngất trời, chỉ cần buông dao xuống, là cũng có thể lập địa thành Phật.
Tôi viết vòng vèo một hồi, vẫn là bốn chữ - nhân quả luân hồi. Việc nhân quả luân hồi là rất logic.
Muốn hỏi nguyên nhân kiếp trước Hãy xem kiếp này ra sao. Muốn hỏi kết quả kiếp sau Cứ xem kiếp này làm gì.
🌟
Tôn giả Xá Lợi Phất
Tôi có một đệ tử ở phương xa tên là Liên Hoa Tố Nguyệt, khi về đến Seattle Lôi Tạng Tự, vừa gặp mặt tôi, cô hướng về tôi đảnh lễ: "Kinh lễ Tôn giả Xá Lợi Phất!"
Có một đệ tử ở Vancouver tên là Liên Hoa Bá Hiển, đã thỉnh mua một bức tượng Tôn giả Xá Lợi Phất từ Đài Loan gửi đến Chân Phật Mật Uyển tặng tôi. Tôi hỏi: "Là tượng ai đây?" Đáp: "Xá Lợi Phất!" Tôi hỏi: "Vì sao lại chọn thỉnh tượng Xá Lợi Phất?" Đáp: "Sư Tôn chẳng phải là Xá Lợi Phất chuyển thế hay sao?" Tôi há hốc miệng: "Ớ… Ớ…" Tôi cứ "ớ" cả hồi lâu như thế, cũng không nói gì!
Theo tôi được biết, trên thị trường có mấy cuốn sách, tác giả chỉ rõ tôi chính là Xá Lợi Phất chuyển thế. Mấy cuốn sách này lại không phải của cùng một tác giả, nói cách khác là có mấy người là tác giả, nhận định rằng tôi chính là Xá Lợi Phất chuyển thế, là đệ tử hàng đầu, một trong số mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tin đồn này càng lan càng rộng, càng ngày càng thật, dường như tôi cũng đã thật sự biến thành Xá Lợi Phất tái xuất rồi. Trên thực tế, cũng có rất nhiều người gửi thư đến hỏi tôi: "Ngài rốt cục có phải là Xá Lợi Phất không?" Rốt cục là đúng hay không đúng? Tôi nhận! Hay là không nhận! Hay là từ chối bình luận! Thôi cứ mặc kệ nó đi!
Đối với người đệ tử hàng đầu của Phật Thích Ca Mâu Ni là Xá Lợi Phất, trong lòng tôi cực kì ngưỡng mộ kính trọng, người Phật Đà tín nhiệm nhất chính là tôn giả Xá Lợi Phất. Do vậy, Phật Đà mới bảo đứa con trai của chính mình là La Hầu La cần bái Xá Lợi Phất làm thầy trước tiên.
Tịnh xá Kì Viên là do Xá Lợi Phất phụ trách xây dựng. Sáu vị ngoại đạo là do Xá Lợi Phất đi hàng phục.
Tôn giả Xá Lợi Phất đã đi theo bên cạnh Phật Đà hơn 40 năm, tự nhận rằng đối với Phật Đà chưa từng có lúc nào phát sinh suy nghĩ không vui cả, hoặc là suy nghĩ không hài lòng. Ngược lại, tôn giả luôn luôn nghe lời Phật Đà, hoàn toàn theo những chỉ thị của Phật Đà mà làm, nỗ lực tinh tấn, đạt được chính giác, cho đến khi không còn chấp ngã, không còn tốt xấu, tâm ngài bình đẳng. Cuối cùng, ngài đã tiến nhập vào cảnh giới niết bàn tịch tĩnh trước Phật Đà.
Tôn giả Xá Lợi Phất kì thực tên gọi là Xá Lợi Phất Đa La, tên gốc là Ưu Bà Để Sa, là con trai của bà Xá Lợi, sống tại một thôn trang tên là Chủ Ma Trá La, cách thành Vương Xá một dặm rưỡi về phía đông nam, cha ngài tên là Đế Sa, là một học giả Bà-la-môn.
Khi còn nhỏ, Xá Lợi Phất đã nhận được sự giáo dưỡng của người cha bác học đa tài và người mẹ thông minh khôn khéo. Ngài tinh thông hàng trăm kĩ năng, trí tuệ vượt trội, khi ngài còn chưa quy y Phật Đà thì ngài cũng đã có rất nhiều đệ tử rồi. Sau này ngài đã dẫn dắt hơn 350 đệ tử đến quy y Phật Đà. Tôn giả Xá Lợi Phất được gọi là bậc trí huệ đệ nhất. Ngài được Phật Đà thọ kí là Hoa Quang Phật, sẽ giáng thế một lần nữa tại nhân gian, để làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh.
Trong quá khứ tôi từng đem Xá Lợi Phất và mấy vị đại đệ tử của Phật Đà ra để so sánh.
- Đại Ca Diếp - Đầu đà đệ nhất. (nhưng chấp vào pháp tương đối nặng)
- Mục Kiền Liên - Thần thông đệ nhất. (nhưng cá tính thiên kiến, căm ghét ngoại đạo đến tận xương tủy)
- A Nan - Đa văn đệ nhất. (vẫn không thực tu, khai ngộ muộn nhất)
Duy có Xá Lợi Phất từ sớm đã chứng ngộ pháp tính, giảm tham biết đủ, không thích tranh đua, hàng phục ngoại đạo, không còn ngã chấp, tinh tấn thiền định, không còn khổ não.
Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói: "Xá Lợi Phất có nhân duyên đẹp nhất, không ai có thể sánh bằng Xá Lợi Phất." Trong con mắt và tâm trí của tôi, ngoài Phật Đà ra, tôn giả Xá Lợi Phất có thể xem là người mà tôi tôn kính ngưỡng mộ nhất. Tôi có thể là ngài Xá Lợi Phất chuyển thế sao?
Nếu như tôi là ngài Xá Lợi Phất chuyển thế, trí huệ của tôi thì sao? Tâm trí bình đẳng của tôi thì sao? Tôi có thể hàng phục được ngoại đạo không? Tôi có thể chấp ngã không? Tôi có thể không còn phân biệt tốt xấu không? Tôi thật sự là Xá Lợi Phất sao? Ai có thể chứng minh cho tôi? Tôi tự mình chứng minh sao?
🌟
Hoa Quang Phật và Hoa Quang Tự Tại Phật
Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí cho Xá Lợi Phất là Hoa Quang Phật.
Trong văn tập "Phong thái của loài bướm" của tôi, tôi có ghi lại một chương kể về "Uống cà phê cùng Phật Thích Ca Mâu Ni". Thời gian: buổi tối ngày 6 tháng 5 năm 1992. Địa điểm: một quán cà phê tại Đài Bắc. Nhân vật: Phật Thích Ca Mâu Ni và Liên Sinh Hoạt Phật. Cách thức: xuất nguyên thần.
Phật Thích Ca Mâu Ni nhìn thấy trên bàn có một tờ giấy trắng và một cây bút, ngài bèn cầm bút lên và viết ra năm chữ lớn, sau đó đưa cho tôi xem. Rất rõ ràng, năm chữ lớn này là: Hoa Quang Tự Tại Phật. Phật Thích Ca Mâu Ni nói: "Liên Sinh, ngài chính là Hoa Quang Tự Tại Phật." Tôi đáp: "Đúng vậy, tôi chính là Hoa Quang Tự Tại Phật."
Phật Thích Ca Mâu Ni và tôi (Liên Sinh Hoạt Phật) đều hồi tưởng về những chuyện thú vị của 2500 năm trước, cùng ăn cơm, cùng đi ngủ, cùng tắm giặt, cùng mặc áo.
"Rốt cục ngài có phải là Xá Lợi Phất không?" - Rất nhiều người hỏi. Tôi trả lời: "Tôi là Lư Thắng Ngạn."
🌟
Nhiều loại thân phận
Bây giờ lại xảy ra vấn đề rồi. Giả dụ đời trước của Lư Thắng Ngạn là Xá Lợi Phất, thế vì sao lần đầu tiên tôi đi du lịch đến thiên thượng giới, đi gặp tiền kiếp của mình, thì không phải là gặp Xá Lợi Phất, mà lại gặp Liên Hoa Đồng Tử?
Liên Hoa Đồng Tử là tận mắt tôi nhìn thấy, tận tai nghe thấy, là Tây phương cực lạc thế giới, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử phóng ra những tia sáng lớn rực rỡ màu trắng, lẽ nào Xá Lợi Phất tương đương với Liên Hoa Đồng Tử, Liên Hoa Đồng Tử tương đương với Lư Thắng Ngạn?
Khám phá về vấn đề này thì không chỉ có như vậy thôi đâu.
Thượng sư Liên Hoa Tịnh Hương của Nhật Bản trong thiền định đã nhìn thấy: Tổ sư Không Hải của Đông mật xuất hiện trong thiền định, đưa Liên Hoa Tịnh Hương bay đến cảnh giới cao nhất của Bì Lư Thánh Hải. Đại sư hoằng pháp là ngài Không Hải lấy ra bộ y phục lama của Chân Phật Tông, đưa cho Liên Hoa Tịnh Hương mặc vào. Sau đó, mặt của đại sư hoằng pháp Không Hải từ từ biến thành mặt của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. "A! Không Hải đại sư, Lư Thắng Ngạn, Lư Thắng Ngạn, Không Hải đại sư."
Do có lần thiền định này mà Liên Hoa Tịnh Hương thượng sư cho rằng đại sư hoằng pháp Không Hải chính là tiền kiếp của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Nếu như xâu chuỗi vào thì sẽ là: Liên Hoa Đồng Tử - Xá Lợi Phất - Không Hải đại sư - Lư Thắng Ngạn.
Tuy nhiên, cũng lại không chỉ có như vậy mà thôi. Bên ngoài còn đồn tôi còn là hóa thân của ngài Tsongkhapa, người sáng lập phái Mật tông Tây Tạng Mũ Vàng. Họ nói, mặt của tôi và Tsongkhapa trong cung Ung Hòa rất giống nhau, ngay cả đến lúm đồng tiền cũng giống.
Bản thân tôi khi giảng về "Mật tông đạo thứ tự quảng luận", tôi cũng tự cảm thấy những thứ mà tôi đang luận giảng như là của chính mình, có những linh cảm về nguồn gốc tuôn trào. Hơn thế nữa, tôi còn giảng trôi chảy dễ dàng như ăn bánh, càng thâm nhập vào nội hàm bên trong thì dường như càng cảm thấy vẫn chưa thể nói hết được những ý nghĩa của chúng. Tôi cảm thấy tự mình đang nói về mình, tự mình hóa thân thành Tsongkhapa, khi tôi thuyết pháp, căn bản là giống như bản thân Tsongkhapa đang thuyết pháp.
Giờ thì, nếu như xâu chuỗi lại: Liên Hoa Đồng Tử - Xá Lợi Phất - Tsongkhapa - Không Hải đại sư - Lư Thắng Ngạn.
Ngoài ra, đệ tử của tôi tên Lâm Huệ Trinh nói với tôi rằng: "Bên ngoài đồn là Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn từng làm Hoàng đế ở Lạc Dương Trung Quốc, là vào thời đại nhà Đường." "Không phải là Lương Võ Đế sao?" "Không phải, không phải, là Đường Minh Hoàng!" "Đường Minh Hoàng? Đó là một hoàng đế phong lưu, là ai nói vậy?" "Trong mấy cuốn sách kia viết thế."
Xâu chuỗi lại thì sẽ thành là: Liên Hoa Đồng Tử - Xá Lợi Phất - Đường Minh Hoàng - Tsongkhapa - Không Hải đại sư - Lư Thắng Ngạn. Thứ tự này khả năng có sự lẫn lộn. Các nhân vật trong này, thật thật giả giả, làm sao ấn chứng?
Vấn đề về kiếp tước, tôi thỉnh thị Diêu Trì Kim Mẫu. Diêu Trì Kim Mẫu đáp: Duyên từ tâm mà sinh Cũng từ tâm mà diệt Hết sinh diệt do ai Xin mời tự phân giải.
Trên thực tế, sau khi tôi khai ngộ, tôi theo Duy thức mà tiến nhập vào "mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý", rồi lại tiến nhập vào khai phá "Mạc Na Thức", khai phá "A Lại Da Thức", rồi tiến nhập vào "Am Ma La Thức", cuối cùng là nhập vào "Vô Lượng Thức". Lúc này thì bầu trời sáng trong xanh, trăng thu tròn vẫn thế.
Kiếp trước đời này của tôi đều nằm trong đó, bao nhiêu thân phận toàn bộ đều xuất hiện rõ như ban ngày, hiện lên giống như chiếu phim liên tục vậy.
Lúc này, tôi đã chứng đắc được túc mệnh thông, bởi vì trong chủng tử của "thức" có chủng tử của mỗi một đời, nếu theo cách nói của khoa học hiện đại ngày nay thì mỗi một hạt chủng tử chính là một quá trình của một cuộc đời, cô đọng lại thành một khối LD [ chủng tử thức ].
Có người cho rằng Liên Sinh Hoạt Phật đã đắc trí huệ bát nhã, nhưng không hiểu Duy thức! Cho rằng Di Lặc Bồ Tát mới là bậc chuyên gia vĩ đại về Duy thức.
Kì thực: Vì đều ở tâm mình Nào phải do ai nói Chỉ cần khổ công rèn Sẽ thấu triệt Hư không.
03. Liên Hoa Đồng Tử lộ diện
Bí mật lớn của Liên Hoa Đồng Tử
Ở đây tôi xin viết một bài kệ: Thể tính thanh tịnh vốn vẫn vô sinh, Bên trong như nhau chẳng gì khác biệt. Ở pháp giới với bám chấp biệt phân Mượn huyễn danh, như Liên Đồng Hoa Tử.
Bài kệ này minh chứng rằng, trong sự thiền định an nhiên tĩnh lặng của tôi, vào thời điểm chính giác cuối cùng, lúc này, tôi và tam thế chư Phật là một thể, không hai không khác, tự tính quang minh.
Tôi nhập vào trong chủng tử thức của Liên Hoa Đồng Tử, tự thân mặc niệm một lúc, tôi giống như mây bay vào trời cao, hoặc giống như cá nhảy vào ao sâu, tôi nhào lộn như một màn diễn trò liên tiếp đầy huyễn ảo.
Tôi nhìn thấy trên cung điện Thiên Vương phóng tỏa ánh sáng nhiều màu sắc, trước Hộ pháp đường tỏa ra khói tím, Tứ đại Kim Cang, ba nghìn Yết Đế, mười hai Đại Diệu, mười tám Già Lan bảo vệ đại pháp đường Hồng Trần Bất Đáo Chư Duyên Dĩ Tận.
Trong đại pháp đường, ba mươi lăm vị Phật đang họp kín. Trong ba mươi lăm vị Phật, vị đầu tiên là Phật Thích Ca Mâu Ni, vị cuối cùng là Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Bà La Thụ Vương Phật.
Quá trình diễn ra của buổi họp kín rất dài, do vậy tôi bỏ qua không nhắc đến, ở đây tôi chỉ trình bày kết quả của buổi họp bí mật: Chủ đề của buổi họp kín: ở thế giới Ta Bà, những người phạm vào năm tội vô gián càng ngày càng nhiều, cần tiến cử và phái một vị Đại Như Lai xuống phàm trần để độ chúng sinh.
Kết quả của buổi họp kín: tiến cử một vị Đại Như Lai danh khí vĩ đại nhất xuống thế giới Ta Bà, không ngờ người "trúng tuyển" là A Di Đà Phật của Tây phương cực lạc thế giới.
Hiện Vô Ngu Phật một trong số 35 vị Phật nói: "Không được, không được, A Di Đà Phật không được!" Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi: "Vì sao không được?" Hiện Vô Ngu Phật nói: "Hành giả ngày nay, người người đều xưng niệm thánh hiệu A Di Đà Phật, nếu thật sự là có A Di Đà Phật giáng thế, chúng sinh chắc chắn sẽ cho là giả, do vậy, vẫn chưa hoằng pháp được thì đã phải nhập Niết Bàn rồi, do vậy không được." Thiện Du Bộ Phật thở dài: "Làm thế nào mới được?" Thích Ca Mâu Ni Phật nói: "Lấy một cái tên khác, gọi là Liên Hoa Đồng Tử." Ba mươi tư vị Phật khác khi vừa nghe đến cái tên Liên Hoa Đồng Tử thì trong lòng rất hoan hỉ, vị nào cũng gật đầu khen hay, thế là, quyết định A Di Đà Phật đổi tên thành Liên Hoa Đồng Tử xuống thế giới Ta Bà để độ chúng sinh. Vô Ưu Đức Phật hỏi những vị khác: "Sẽ hoằng pháp gì?" Tinh Tấn Quân Phật đáp: "Ngày xưa, Thích Ca Mâu Ni Phật lấy Mật hoằng Hiển. Ngày nay, A Di Đà Phật lấy Hiển hoằng Mật. Do vậy, Hiển - Mật viên dung." Ba mươi lăm vị Phật nghe xong đều đại hoan hỉ.
🌟
Hồ sơ cực kì cơ mật
Nghị quyết này được liệt vào là "hồ sơ cực kì cơ mật", bất kì một vị Phật nào cũng đều không được để lộ ra. Từ năm 25 tuổi cho đến hôm nay là 52 tuổi, tôi mới nói chuyện này ra, bởi vì thời cơ đã đến, thời khắc để cho Liên Hoa Đồng Tử lộ diện đã đến rồi!
Chương sách này, tôi muốn chứng minh mấy điểm, để giải thích cho những nghi ngờ của mọi người: Có người cho rằng giáo chủ của Tây phương cực lạc thế giới hạ sinh tại nhân gian, vậy thì trên trời vẫn còn A Di Đà Phật không?
Câu hỏi này, chỉ cần là người có kiến thức Phật học một chút đều có thể trả lời được. Phật có tam thân, Pháp thân, Báo thân và Ứng hóa thân. A Di Đà Phật của Tây phương cực lạc thế giới là cảnh giới của Báo thân, cảnh giới Pháp thân của A Di Đà Phật đương nhiên vẫn là Tỳ Lô Giá Na Phật, là Đại Nhật Như Lai Ngũ Trí, một hóa thân của Diệu Quan Sát Trí.
Còn Lư Thắng Ngạn chính là một trong những Ứng hóa thân của A Di Đà Phật. Cách giải thích trong Phật học là như vậy. Một mặt trăng tròn treo cao trên hư không, còn trong các hồ nước cũng có mặt trăng, trong các dòng sông có mặt trăng, hình thành nên hiện tượng nghìn sông có nước nghìn sông trăng.
Mặt trăng tượng trưng cho Báo thân của A Di Đà Phật. Còn những mặt trăng hiện trong nước tượng trưng cho Ứng hóa thân Lư Thắng Ngạn.
Do vậy, truyền thừa chân chính của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là: Nguyên là: Đại Nhật Như Lai - Phật Nhãn Phật Mẫu - Liên Hoa Đồng Tử - Lư Thắng Ngạn. Hiện là: Đại Nhật Như Lai - Phật Nhãn Phật Mẫu - A Di Đà Phật - Lư Thắng Ngạn. Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật.
Còn nghi hoặc quan trọng thứ hai là: Vì sao khi Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí cho Liên Sinh Hoạt Phật thì không phải tên là A Di Đà Phật hoặc một tên gọi khác của A Di Đà Phật, mà lại là Hoa Quang Tự Tại Phật, trong việc này liệu có nghi vấn gì không?
Tôi giải thích như sau: Trong việc này, bản thân tôi đã giấu đi một chi tiết nhỏ, tuy nhiên trong lúc tôi thuyết pháp khai thị đã từng nói ra, và có không ít người đã biết. Ban đầu, khi Phật Đà thọ kí cho tôi thành Phật, đầu tiên là Ngài viết: "Đại Quang Tự Tại Phật!" Tôi lắc đầu. (thời cơ vẫn chưa đến) Phật lại viết: "Hoa Quang Tự Tại Phật!" Tôi mới gật đầu.
Ấy nhưng cái tên Hoa Quang Tự Tại Phật này lại chính là Phật danh đã được ấn chứng cho Xá Lợi Phất tương lai thành Phật, đây chính là trong cái sửa đổi cũng lại có cái ẩn giấu.
Đại Quang Tự Tại Phật thật sự có quan hệ rất chặt với A Di Đà Phật. Mọi người xem, trong kinh Vô Lượng Thọ có viết: "Vô Lượng Thọ Phật uy thần quang minh tối tôn số một, là do Vô Lượng Thọ Phật còn mang hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối quang Phật, Diệm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỉ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật." Tên gọi chung cho 12 Quang Phật này chính là Đại Quang Tự Tại Phật.
Lại xem kinh A Di Đà viết: "Xá Lợi Phất, Tây phương thế giới có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật." Ở đây, Đại Quang Phật chính là Đại Quang Tự Tại Phật, cũng tức là hóa thân Phật của A Di Đà Phật.
Mọi người hãy thử đọc bài kệ tán thán A Di Đà Phật: A Di Đà Phật thân kim sắc Tướng hảo quang minh vô đẳng luân Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di Hám mục trừng thanh tứ đại hải Quang trung hóa Phật vô số ức Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Trong 120 cuốn sách mà tôi viết, Liên Hoa Đồng Tử ẩn dụ A Di Đà Phật nhiều vô kể, có thể tìm thấy ở rất nhiều chỗ! Tây phương cực lạc thế giới, Ma ha song liên trì, Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử. “Nam mô ba mươi sáu vạn tỉ, mười một vạn, chín nghìn năm trăm đồng danh đồng hiệu A Di Đà Phật”. (niệm khi tu pháp) Tôi tu Bổn tôn A Di Đà Phật, hiển thị bản địa của Liên Hoa Đồng Tử là A Di Đà Phật.
Bức tượng đầu tiên mà tôi mang đến nước Mỹ là A Di Đà Phật. Tôi tôn sùng ba vị: Diêu Trì Kim Mẫu. A Di Đà Phật. Địa Tạng Bồ Tát. Và các vị khác.
"Hồ sơ cực kì cơ mật" này, bản thân tôi biết rất rõ, nhưng thời cơ chưa đến, làm sao tôi dám nói. Tôi giữ trong lòng đã 27 năm rồi, chỉ một chút nữa là không chịu được nữa, lại thêm những lời đồn đại bên ngoài quá nhiều. Thế nên hôm nay, thời cơ đã đến, tôi mới dám để cho Liên Hoa Đồng Tử thực sự lộ diện. Đồng thời tôi cũng mới dám công khai với thế gian diện mạo thật của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh!
🌟
Tà ma át chính pháp
Năm 25 tuổi thì tôi mở thiên nhãn, Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh dạy pháp, khi đó, tôi thật sự rất thuần khiết, lúc nào cũng ngây thơ. Tôi đem chuyện bản thân là Liên Hoa Đồng Tử giáng sinh nói ra ngoài. Lập tức tôi đã ứng được ngay hai câu nói: "Một lời nói sai người tức giận, ý làm tổn thương bực đám đông."
Ở cõi trời: Thiên Ma vô cùng phẫn nộ, triển khai chiến tranh ở linh giới, khiến quá trình tu hành của tôi gặp chướng ngại liên miên. Còn ở nhân gian, tôi càng thảm hơn. Giới văn hóa, giới tôn giáo, giới chính trị, giới tình trị, đều triển khai những vòng vây tiêu diệt lớn, những tin đồn và lời buộc tội vô căn cứ rất nhiều!
Hôm nay tôi vẫn chưa chết, là nhờ có sự bảo hộ của các vị Kim Cang Hộ Pháp chư Thiên. Mỗi lần tôi gặp đại nạn sẽ luôn xuất hiện kì tích, gặp dữ hóa lành, hoặc có quý nhân xuất hiện, đưa tay cứu giúp.
Ví dụ có một lần trong thiền định. Có một lão ma đầu vác một thanh gươm sắt liên tục chém xuống đầy hung hãn, một lòng chỉ muốn giết tôi. Đúng vào lúc nguy hiểm, tôi chỉ nhìn thấy phía trên đỉnh đầu tôi xuất hiện một chiếc đầu vàng đỡ từng nhát gươm chém xuống, từng tiếng "chát" rất to.
Hóa ra người đã cứu tôi là Kim Đầu Yết Đế. Lão ma đầu thấy không làm hại tôi được bèn chạy mất. Kim Đầu Yết Đế lui mình sau bức rèm, cưỡi lên ánh sáng cát tường rồi biến mất.
Tôi học thiền định: Tâm linh thanh tịnh không vướng bận Tĩnh lặng không khởi một nghĩ suy Tâm vượn ý ngựa thôi bay nhảy Ý nghĩ cẩn trọng chẳng chênh vênh. Bài trừ lục tặc ngộ tam thừa Buông bỏ vạn duyên tự phân minh Sắc tà diệt sạch siêu chân giới Tây phương Cực lạc được ngồi chơi.
Ngẫm nghĩ thấy, tôi mới nói ra mình là Liên Hoa Đồng Tử hạ sinh thì đã bị "đánh" cho đến mức thập tử nhất sinh rồi, xém chút nữa thì đến cả tính mạng này cũng không giữ được nữa. Nếu như tôi nói tôi là A Di Đà Phật hạ sinh thì khẳng định là sẽ có rất nhiều cao tăng đại đức ai nấy đều nhổ nước bọt phì phì cho tôi chết chìm từ lâu rồi.
Có một số người cho rằng tôi bị "tà ma át chính pháp", không thể như vậy! Vì sao không thể? Mọi người nghĩ mà xem, trong phong trào "phá tứ cựu" (*) của cuộc cách mạng văn hóa Trung Quốc cộng sản, rất nhiều chùa chiền đã bị phá hủy, những bức tượng Phật Bồ Tát bị chặt đầu chặt tay, trên mặt thì bị dán những chữ như "lão quái vật", "mê tín", "họa quốc ương dân", tăng nhân bị ép hoàn tục, những văn vật Phật giáo quan trọng trong lịch sử bị đốt, đây đều là những tai nạn lớn của toàn bộ Trung Quốc, ngay cả những ngôi chùa tên núi cao thung sâu cũng không tránh khỏi nạn này.
[ ND: phong trào “Phá tứ cựu, lập tứ tân” là khẩu hiệu hành động của cuộc đại cách mạng văn hóa Trung Quốc do Trung Quốc cộng sản lãnh đạo. Bốn điều cũ cần tiêu diệt là: tư duy cũ, văn hóa cũ, thói quen cũ, phong tục cũ đương thời tồn tại ở Trung Quốc. ]
Tôi đã đi Trung Quốc Đại Lục một lần. Người ta nói với tôi: "Thật may khi đó vẫn còn một số phần tử trí thức, lấy lý do là "văn vật trọng yếu" nên mới bảo vệ được một số văn vật lịch sử, tượng Phật, kinh điển Phật, hoặc tìm nơi để giấu chúng đi, tránh bị hủy hoại sạch sẽ. Cuộc đại cách mạng văn hóa thực sự là rất thảm!"
Theo quan sát của tôi, đây cũng chẳng phải là lỗi của Giang Thanh hay Tứ nhân bang. [ ND: Giang Thanh, vợ thứ tư của Mao Trạch Đông - chủ tịch CHND Trung Hoa, là một trong bốn thành viên của nhóm Tứ nhân bang, một nhóm người lãnh đạo hoạt động trong cuộc Cách mạng Văn hóa. ] Vốn dĩ đằng sau lưng họ có Đại Thiên Ma lãnh đạo, ý chỉ thực sự đến từ thiên thượng giới, Thiên Ma của cõi Đại Tự Tại Thiên đã đạo diễn tấm thảm kịch này. Là Đại Thiên Ma lợi dụng thời cơ nhằm muốn tiêu diệt Phật giáo, đây mới chính là "tà ma át chính pháp". Những ý thức do tà ma từ trong hư không reo rắc xuống thật sự lợi hại, sau khi đã biến thành ý thức quần chúng thì đã khiến cho tất cả mọi người phát cuồng.
Tôi vẫn còn nhớ, khi đó ở Thiên Thượng Giới, tôi lý luận cùng Ma Vương. Ma Vương nói: "Ta sẽ xâm nhập vào tâm của người thân ngươi, vào tâm của đệ tử ngươi, khiến cho họ phạm nghiệp, để ngươi không thể đạt được mục đích cứu độ chúng sinh. Ta sẽ xâm nhập vào tâm của các vị thầy của ngươi để họ từ bỏ ngươi." Tôi đáp: "Tôi vẫn sẽ luôn bố thí xả bỏ, kiên trì giữ bồ đề tâm." "Cho dù có như thế, thì cứ thử sẽ biết." - Ma Vương nói. "Định và huệ giống như đôi cánh, giúp tôi bay vào hư không chẳng sợ rơi, cuối cùng tôi cũng sẽ bay trở về Ma Ha Song Liên Trì." - Tôi khẳng định với Ma Vương như vậy.
Đương nhiên tôi biết, tôi sẽ phải chấp nhận vận mệnh "sư phụ từ bỏ, đệ tử từ bỏ, người thân từ bỏ". Nhưng tôi dùng "vô lượng xả bỏ", "vô lượng từ bi" để mãi giữ vững bồ đề tâm của mình.
Còn nữa, tôi dùng Nguyệt Yểm Tôn, tức Hàng Tam Thế Minh Vương, bốn mặt tám cánh tay, chân đạp lên hai vợ chồng Đại Tự Tại Thiên.
Trong Thai Tạng Giới, có ba vị Hàng Tam Thế Minh Vương, một vị ở Kim Cang Thủ viện, một vị ở Bất Động viện, một vị ở Địa Tạng viện. Cả ba vị Hàng Tam Thế Minh Vương này đều có năng lực tối thượng trong việc hàng phục Thiên Ma. Tôi cũng có thể nhập vào tam muội của Hàng Phục Tứ Ma Kim Cang Hí!
🌟
Nhân duyên của Liên Hoa Đồng Tử
Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật. Ma Ha Song Liên Trì cũng có bảy lớp hàng rào, bảy hàng cây, bảy ao quý, nước bát công đức, luôn vang tiếng thiên nhạc, vàng làm thành mặt đất, pháp âm hòa nhã, những hàng cây quý, những loại võng quý, ánh sáng vô lượng, thọ mệnh vô lượng,…
Ba nhân vật trong Kinh A Di Đà là: Người giảng kinh: Phật Thích Ca Mâu Ni. Người nghe kinh: Tôn giả Xá Lợi Phất. (nhân vật chính) Nhân vật chính trong kinh: A Di Đà Phật.
Mọi người so sánh thử ba nhân vật lớn trong kinh A Di Đà cùng số mệnh của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn ngày nay thì sẽ thấy rất rõ ràng. Liên Hoa Đồng Tử - A Di Đà Phật. Xá Lợi Phất - Lư Thắng Ngạn. Tam Sơn - Thích Ca Mâu Ni Phật. (Tam thân) Cửu Hầu - Ngũ Phật Tứ Bồ Tát.
Nếu giải thích dựa theo "kiếp trước đời này" thì Lư Thắng Ngạn đã có được lực gia trì từ Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngũ Phật Tứ Bồ Tát ở trung tâm của Thai Tạng Giới, việc này căn bản là không có gì đáng ngạc nhiên. Khi những nhân duyên này kết hợp lại thì sẽ trở thành một chuỗi liên kết rất hợp tình hợp lý.
Ngày nay, Liên Sinh Hoạt Phật độ bốn triệu chúng sinh, có 30 tòa Lôi Tạng Tự, 300 trung tâm phân đường. Đã viết 120 cuốn sách, những sách và video ghi hình diễn giảng khai thị thuyết pháp nhiều vô số. Những việc này đều có nhân duyên cả. Vì thế, tôi cũng hiểu rằng, nếu phân lượng kiếp trước của bạn cực kì nặng thì trách nhiệm hoằng pháp đời này cũng tỉ lệ tương đương như vậy.
Tôi hoằng pháp vì điều gì? Viết ra bài kệ vậy! Tam bảo uy nghiêm đạo tôn kính Tứ thánh lục phàm đều luận bàn Minh tâm hiểu hết Nhân - Thiên pháp Kiến tính thắp sáng trí huệ đăng.
Nói một cách rất thật lòng, khi còn nhỏ, tôi chẳng có chút gì nổi bật, chí hướng cũng chẳng phải cao. Thuở trung học thích sáng tác, muốn trở thành nhà thơ, cũng muốn trở thành nhà văn, hoặc làm nghề viết tin tức. Thời kì đại học, tôi học trắc lượng, nghĩ rằng làm một kĩ sư trắc lượng cũng được. Sau khi tốt nghiệp, tôi đã đi làm các công trình trắc lượng cũng cả mười năm, liên tục ở trong lĩnh vực trắc lượng.
Thế rồi, số mệnh đột ngột thay đổi, tôi đã gặp được nhân duyên với Phật - Đạo, từ đó mới bắt đầu học Phật, học Đạo. Sự thay đổi này thực sự là quá lớn. Sau khi tôi thâm nhập vào kinh tạng, tôi phát hiện ra trong đó bao gồm tất cả những kết tinh về cuộc đời, có thể giải đáp những thắc mắc về cuộc sống, có thể đào sâu tìm hiểu và có được những giá trị sinh tồn. Từ đó, tôi dấn thân theo con đường này không một chút hối tiếc. Tôi tự biết, thân phận mình không phải tầm thường, cơ duyên của mình không phải tầm thường, thành tựu của mình không phải tầm thường. Tất cả những điều này đều sẽ lần lượt hiển lộ ra trước công chúng.
04. Công pháp của Diêu Trì Kim Mẫu
Vị cao linh ở phía sau
Có một tăng nhân già đã tu hành nhiều năm từng nói với tôi: "Mỗi một hành giả, bất kể là thành tựu nội tại hay thành tựu ngoại tại (sự nghiệp nhân gian), sau lưng họ đều có cao linh đang gia trì cho họ." Vị cao linh vô hình này là một vị chủ tôn chân chính. Do vậy, trên thân của hành giả, hoặc nhiều hoặc ít sẽ xuất hiện khí chất của vị cao linh vô hình ở trên thân mình, chỉ cần quan sát khéo một chút là có thể nhận ra được thân phận của vị cao linh này.
Tăng nhân già còn nói, một số hành giả trên thân chỉ có hình bóng của một cao linh, tuy nhiên, cũng có người thì có tầng tầng lớp lớp, có nhiều cao linh cùng trợ giúp. Cũng có người thì cao linh đến rồi lại đi, cũng có người thì vĩnh viễn có cao linh đi theo, hiện tượng này không phải là hiếm, và cũng tương đối phức tạp.
Lão tăng nói, một đại thành tựu giả thì các cao linh của họ địa vị rất cao. Người thành tựu ít thì các linh bổ trợ cho họ chỉ là thần đất, thần nước, thần hồ, thần cây. Còn người không thành tựu thì trên thân chỉ có khí tục, đến một cái bóng của một linh cũng không có.
Lão tăng phân tích: Sau lưng của Chứng Nghiêm pháp sư là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Sau lưng của Tinh Vân đại sư là Thái Âm Sơn Phủ Quân. Sau lưng của Thanh Hải Vô Thượng Sư là Đại Phạm Thiên Vương. Sau lưng của Tuyên Hóa thượng nhân là Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát. Sau lưng của Diệu Liên trưởng lão là Quan Thế Âm Bồ Tát.
Tôi hỏi lão tăng: "Sau lưng tôi thì sao?" Lão tăng cười ha ha nói: "Diêu Trì Kim Mẫu!"
Bổn tôn của tôi là A Di Đà Phật, dạy đạo cho tôi là Thích Ca Mâu Ni Phật (Tam Sơn), là Ngũ Phật Tứ Bồ Tát của trung tâm Thai Tạng Giới (Cửu Hầu), thế mà không ngờ vị cao linh ở sau lưng tôi không phải là các vị đó, mà lại là Diêu Trì Kim Mẫu, chẳng phải quái lạ sao!
Lão tăng nói: "Không sai, phần quang khí trên người ngài xuất phát từ quang khí của giới Phật, giới Bồ Tát rất mạnh. Nhưng, một cách vô ý, ngài cũng để lộ ra một loại quang khí vô cùng đặc thù, là ánh sáng đa sắc ở dạng xoắn chuyển, quang khí này thường xuyên xuất hiện trên thân ngài, điều này là sự gia trì nhiều lớp. Quang khí đặc thù này không phải bình thường, chính là quang khí của Diêu Trì Kim Mẫu, nghiêm túc mà nói thì Diêu Trì Kim Mẫu mới là cao linh thực sự ở sau lưng ngài!"
Lão tăng còn nói: "Không chỉ như vậy, trong những ngôi chùa Lôi Tạng Tự và các phân đường Chân Phật Tông mà ngài xây dựng thì linh quang của Diêu Trì Kim Mẫu là một bộ phận rất quan trọng, thậm chí Diêu Trì Kim Mẫu là thủ tọa, lúc nào linh quang của Diêu Trì Kim Mẫu cũng là mạnh nhất, là vị Bồ Tát thường trụ của Lôi Tạng Tự." Tôi không phản đối huệ nhãn của vị tăng già chút nào.
🌟
Nhân duyên với Diêu Trì Kim Mẫu
Nhân duyên của tôi và Diêu Trì Kim Mẫu, nếu như muốn đưa ra LD (chủng tử thức) của đời quá khứ, tôi đương nhiên biết rõ thân phận của tôi và Kim Mẫu, chúng tôi là những người chí thân. Do vậy, những người phục vụ thân cận của Diêu Trì Kim Mẫu - Đổng Song Thành, Ngọc Chi, Hoa Lâm, Thanh Nga, Dao Cơ, Mị Lan - khi gặp tôi đều vô cùng cung kính.
Thân phận của Diêu Trì Kim Mẫu rất cao, do vậy rất nhiều tôn giáo đã lợi dụng danh phận của Ngài để biến Ngài thành chủ tôn của rất nhiều giáo phái, ví dụ: Ngọc Mẫu Nương Nương, Hoàng Mẫu, Lão Nương. Ngài có rất nhiều danh hiệu, kì thực đều là do người đời sau phụ họa thêm. Trong Đạo gia mà nói thì Diêu Trì Kim Mẫu là Tiên Thiên Nhất Khí.
Theo những gì tôi trải nghiệm mà biết được thì: Tiên Thiên Nhất Khí - Pháp thân. Diêu Trì Kim Mẫu - Báo thân. Câu Hồi - Ứng thân.
Dựa theo Đạo Gia Tu Tiên và Phật Giáo tam giới để phân biệt thì: Dục Giới Thiên - Địa Tiên. Sắc Giới Thiên - Thiên Tiên. Vô Sắc Giới Thiên - Kim Tiên.
Quả vị của Diêu Trì Kim Mẫu kì thực là không thể tưởng tượng được, dựa theo Phật lực của tôi để đo lường thì khí của Ngũ Phương Huyền Diệu của Đạo gia cũng tương đương với Ngũ Phương Phật của Phật giáo. Đương nhiên, Diêu Trì Kim Mẫu là địa vị của Phật Vương. Ngoài Huyền Huyền Thượng Nhân và Mộc Công Thượng Thánh ra thì địa vị của Diêu Trì Kim Mẫu là cao quý số một.
Tôi so sánh Diêu Trì Kim Mẫu giống như một trong Ngũ Phương Phật tuyệt đối không phải là tôi đang tâng bốc Diêu Trì Kim Mẫu, tôi thực sự có được nhận thức như vậy. Tuy nhiên, tôi biết giới Phật giáo cũng cực lực phản đối cách nói này của tôi. Giới Phật giáo cho rằng Phật thì là Phật, thần tiên của Đạo gia đều chưa phải ở mức độ cao nhất cuối cùng, chưa viên mãn, đều là "hoa lá cành" rườm rà, đều là ngoại đạo.
Kì thực, các phương pháp tu hành không giống nhau, giống như leo núi vậy. Nếu như đỉnh của một ngọn núi là Phật quả thì đường lên đỉnh núi không chỉ có một con đường. Chúng ta có thể khai mở rất nhiều con đường lên núi, và cuối cùng cũng đều đến được đỉnh núi. Do vậy, Phật pháp mà Phật Đà đã giác ngộ có nguồn gốc từ đạo Bà La Môn của Ấn Độ hoặc Ấn Độ giáo, đương nhiên, Phật pháp của Phật Đà so với đạo Bà La Môn và Ấn Độ giáo thì siêu việt hơn, nhưng chúng ta có thể thấy được là cái gốc của Phật giáo là được cắm trên đất của đạo Bà La Môn.
Phật giáo được truyền vào Trung Quốc, cùng với Đạo gia vốn có của Trung Quốc có sự triệt tiêu và tăng trưởng lẫn nhau, hình thành nên Phật giáo Trung Quốc. Theo Mật giáo mà nói thì Vô thượng mật bộ và nội pháp của Tạng mật cùng với phái Khí công đan đỉnh của Đạo gia rất gần với nhau và gần như nhau, cách thức tu pháp khác nhau nhưng cùng dẫn tới một kết quả cuối cùng.
Tôi thừa nhận, bởi vì nhân duyên của "Chủng tử thức", duyên phận của tôi và Diêu Trì Kim Mẫu là rất sâu rất đậm, căn bản là không thể tách rời. Lão tăng nhận định cao linh sau lưng tôi là Diêu Trì Kim Mẫu, tôi không dám phủ nhận!
🌟
Công pháp của Diêu Trì Kim Mẫu
"Diêu Trì Kim Mẫu phổ độ tu viên định huệ giải thoát chân kinh" viết: "Người tu đạo, nói về cách để quay trở về với Đạo, thì vạn vật đều có gốc, từ gốc mà sinh cành, từ cành mà sinh lá, từ lá mà sinh hoa, từ hoa mà kết quả. Con người và vạn vật tuy không đồng chất nhưng lại có cùng một nguyên lý, có nguồn thì gốc rễ mới sinh ra. Gốc sinh ra cành lá xum xuê, gỗ khô thì gốc cành cũng thối mục, chẳng còn lá. Do vậy, tu đạo cần cái gốc chắc khỏe. Người có gốc khỏe thì cần phải làm sao? Thế gian thì lấy sự tôn kính hiếu lễ làm gốc, Đạo thì lấy tinh khí làm gốc. Giữ được tôn kính hiếu lễ, thì người không thẹn với lương tâm. Có được tinh khí đầy đủ, thì Đạo có thể tu. Tu đạo vốn chẳng nằm ở đâu khác, mà hoàn toàn nằm ở chỗ bản lai diện mục của mình. Tinh khí bị mất đi ở chỗ nào thì cần thu lại về ở chỗ đó.
[ ND: Bản lai diện mục: là Tính Không, là cái gốc, là bộ mặt “thật sự” của mình, vốn vô sinh vô diệt, chứ không phải là cái thân giả huyễn hiện tại ]
Còn nữa: "Giải thoát là vô cùng khó. Cái khó nằm ở Định - Huệ. Thân tâm đại định thì sẽ sinh ra trí huệ, trí huệ đều đã có thì giải thoát lại dễ. Muốn giải thoát hết thì trước tiên cần loại trừ lục tặc, tai không nghe âm thanh, mắt không nhìn sắc, thân không chạm vào ô uế, ý không bám chấp vào vật, mũi không ngửi mùi, miệng không tham ăn. Khi lục tặc đều không còn thì ngũ uẩn tự sạch sẽ, thọ tưởng hành thức sẽ giống như gương thấy hình, ngũ uẩn sẽ rõ ràng sạch sẽ, tam gia hội hợp, tinh khí và tinh thần thường xuyên duy trì được sự hoạt bát, trên dưới lưu thông, nạn gì cũng giải thoát được."
Công pháp của Diêu Trì Kim Mẫu đã chỉ ra: Tu đạo - gốc khỏe. Tu đạo - trở về với diện mạo thực sự. Khẩu quyết là - tinh khí mất đi ở chỗ nào thì thu về ở chỗ đó. Thân tâm đại định - sẽ sinh ra trí huệ. Lục thức đều không - ngũ uẩn sạch sẽ. Tinh khí thần - trên dưới lưu thông.
Khi tôi mới gặp được nhân duyên với đạo Phật, tôi liền nhờ Diêu Trì Kim Mẫu khởi linh và mở thiên nhãn, đêm đó, tôi đã du lịch đến khắp trên trời dưới đất, việc này ai cũng biết rồi. Những trải nghiệm này đã được ghi lại trong những cuốn sách tâm linh thời kì đầu của tôi. Tôi cũng học tập công pháp của Diêu Trì Kim Mẫu, ví dụ: Chú kiếm pháp, Đại ôn dưỡng pháp, Đan đỉnh pháp, Vô cực chính pháp, v.v…
Công pháp của Diêu Trì Kim Mẫu và Tây Tạng Mật giáo công pháp, pháp tu trì của chúng có sự khác biệt, nhưng về mặt đạo lý thì tương thông, tôi phân tích ngắn gọn như sau: "Gốc khỏe" tức là thân, khẩu, ý vô lậu trong Mật giáo. Mật giáo viết: "Hữu lậu giai đọa." [ ND: Nếu còn sự rò rỉ thì đều đi xuống. ]
Thân có bốn loại rò rỉ là: Tinh đạo lậu [ rò rỉ qua tinh khí ] Khẩu đạo lậu [ rò rỉ qua đường miệng ] Mao khổng lậu [ rò rỉ qua lỗ chân lông ] Tiểu tiện đạo lậu [ rò rỉ qua đường tiểu tiện ].
Khẩu đạo lậu lại có bốn loại: thượng hành khí lậu, hạ hành khí lậu, bình trụ khí lậu, biện hành khí lậu.
Bốn loại rò rỉ từ ý là: ái, tham, vô minh, bất chính kiến. "Trở về với diện mạo thực sự" chính là Bổn tôn pháp của Mật giáo, hành giả từ một kẻ phàm phu tu thành Bổn tôn Phật, Bổn tôn Bồ Tát, chính là trở về với diện mạo thực sự.
Khẩu quyết của Diêu Trì Kim Mẫu là: "Tinh khí mất đi ở chỗ nào thì thu về ở chỗ đó", câu nói này thật sự là cực kì quan trọng. Mật giáo tu thân-khẩu-ý, tu khí-mạch-minh điểm, chính là tương đồng với khẩu quyết này. Thân tâm đại định thì sẽ sinh ra trí huệ, đây cũng chính là "tam học" của Phật pháp. Lục thức đều không, ngũ uẩn sạch sẽ, trong điều này đã có duy thức học nhập môn.
Tinh-khí-thần là ba yếu tố quan trọng trong tu luyện Đạo giáo. Khí-mạch-minh điểm là ba yếu tố quan trọng trong tu luyện Mật giáo.
Tôi trình bày như sau: Tinh - Minh điểm. Khí - Khí. Thần - Quang minh phong mạch.
Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết: Chú kiếm pháp - cơ sở của Vô thượng mật bộ. Đại ôn dưỡng pháp - bảo bình khí, chuyết hỏa. Đan đỉnh pháp - minh điểm pháp. Vô cực chính pháp - tịnh quang tính Không.
Công pháp của Diêu Trì Kim Mẫu thật sự là trực thông với Mật giáo. Khi tôi học tập pháp của Mật giáo, tôi đã phát hiện ra toàn bộ đều có sự liên kết với nhau. Ở đây chính là nhất thông bách thông, đã thông thạo một pháp thì sẽ thông thạo trăm pháp, pháp môn nào cũng đều thông suốt, thật sự là nhìn một cái là thấy ngay, vô cùng rõ ràng.
Rất nhiều pháp sư Phật giáo vừa mới thấy tôi tôn sùng Diêu Trì Kim Mẫu liền chửi tôi là ngoại đạo, là đại ngoại đạo. Kì thực, tôi là "đại" chứ không "ngoại", tôi nhỏ bé nhưng chẳng yếu kém, mọi thứ "nội ngoại" tôi đều thông thạo.
Rất nhiều pháp sư đòi Lôi Tạng Tự của tôi không được thờ cúng Diêu Trì Kim Mẫu. Tôi hỏi ngược lại: "Không thờ cúng Ngài, vậy thờ cúng ai? Tôi cúng bà cố nội nhà ông chắc!"
Tôi nói với các pháp sư không chút khách khí, xin đừng trách tôi. Hôm nay tôi gia nhập Phật môn, Diêu Trì Kim Mẫu là vị thầy đầu tiên dẫn dắt tôi. Tôi tham học đạo Phật, khai ngộ thành tựu, đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác cũng là nhờ vào Diêu Trì Kim Mẫu. Uống nước nhớ nguồn, tôi không tôn sùng Ngài thì tôn sùng ai?
05. Thứ tự của chư Thiên
Thứ tự sinh khởi
Nói đến việc tu trì tôn giáo của cuộc đời này, kể ra thì rất dài, nhưng đại bộ phận tôi cũng đã viết trong 120 cuốn sách rồi. Tóm lại, tôi bái sư học nghệ, thâm nhập kinh tạng, tĩnh tọa tu thiền, niệm kinh trì chú, thời gian lướt qua, thoắt cũng đã 27 năm rồi.
Tôi hiểu rằng tôi không phải là một thứ kiểu "đốn ngộ", tôi là kiểu đặt từng dấu chân, tu trì dần dần mà có được những thành tựu này. Nói một cách vắn tắt là, tôi không phải "đốn ngộ", mà là "tiệm ngộ" [ ND: giác ngộ theo con đường có thứ tự, đi từ thấp tới cao ].
Tôi thường nói, việc viết văn của tôi cũng giống như việc tu hành, mỗi ngày tôi nhất định đều viết. Cũng thế, mỗi ngày tôi nhất định phải tu pháp. Do vậy, tôi là một hành giả chân đạp thực địa, tôi đã dành rất nhiều thời gian và công sức cho việc nghiên cứu Phật pháp. Tôi tin tưởng rằng, sự tinh tấn và nỗ lực này, Phật Bồ Tát và các vị tổ sư trong lịch sử đều sẽ không ngừng tán thán.
Đương nhiên, những sự phỉ báng mà tôi đã trải qua cũng nhiều không sao đếm được, cũng như chẳng có cách nào tính toán. Bất kể thể loại phỉ báng nào tôi cũng đều cho là việc tự nhiên phải thế thôi, là điều bình thường, đối với tôi mà nói thì tất cả đều chẳng thành vấn đề.
Rất nhiều người muốn biết cảnh giới của tôi đã đạt đến đâu rồi? Cũng lại có rất nhiều người muốn biết, công lực của tôi một khi phát huy ra thì liệu có phải là trời đất thực sự sẽ chấn động lớn không? Lại còn có lời đồn đại càng hay ho hơn nữa, là trước đây Lư Thắng Ngạn là kim quang sáng chói ngời ngời, bây giờ thì là khí đen che kín mặt, công lực của Lư Thắng Ngạn đã mất hết rồi.
Tôi trả lời bằng một bài kệ như sau: Sắc sắc vốn vô sắc, Không không cũng chẳng không. Ồn ào hay trầm lặng Gốc cũng là như nhau. Trong mộng nào cần nói lời mộng Dụng trong hữu dụng cũng vô dụng thôi, Công trong vô công cũng mang công rồi. Như quả chín tự nhiên sẽ đỏ Đừng hỏi làm sao để quang vinh.
Bài kệ này, mọi người cứ ngẫm nghĩ đi, nếu như nghĩ không thấu được thì tùy mọi người nói gì thì nói!
🌟
Mật pháp và chư Thiên
Rất nhiều người đều biết, cuối cùng tôi đã chọn đi theo hướng tu trì Mật pháp. Mật giáo nói "tức thân thành Phật" là có nguyên lý và phương pháp thực tu của nó. Nay tôi sẽ nói ngắn gọn và chính xác những trải nghiệm của bản thân như sau:
Trước tiên, tôi sẽ sắp xếp theo thứ tự 28 Thiên như sau: Dục Giới có 6 Thiên, Sắc Giới có 18 Thiên, Vô Sắc Giới có 4 Thiên.
Trong 28 Thiên này, tôi làm cách nào để mà "lên trời"? Tôi sẽ công bố hết tần tật gần như không giữ lại chút nào phương pháp tu luyện của bản thân. Tôi muốn nhờ vào sự công khai to gan này, tôi sẽ kích hoạt được tín tâm và quyết tâm tu hành thành Phật của chúng sinh.
Thế nhưng, điều tôi muốn nói với mọi người là, trong quá trình tu trì, thực sự là có rất nhiều rẽ nhánh chệch ra khỏi con đường chính. Thực sự có rất nhiều tâm yếu khẩu quyết, những điều này đều nhất định cần có một vị Kim Cang Thượng Sư chân chính luôn ở bên cạnh để khai thị và chỉ đạo, nhất định cần phải quy y, nhất định cần phải nhận quán đảnh. Trong quá trình học pháp, nhất định phải có chính kiến, chính niệm, Căn bản Thượng sư mới có thể truyền dạy chính pháp cho bạn, về mặt này không được xem thường cho qua.
🌟
Hỉ lạc
Tại cõi trời Dục Giới Thiên, tôi dùng cảm giác về hai chữ "hỉ lạc" để biểu thị. Dục Giới Thiên có hai loại tham lớn nhất là tham dục và tham ăn, tuy nhiên ở cõi này cũng có thiên đường để hưởng phúc. Nhìn chung, người giữ năm giới hạnh và làm mười điều thiện thì sau khi chết đi, sẽ dựa theo công đức và phúc báo mà người này có thể được lên cõi trời Lục Dục.
Tuy nhiên, trong việc tu trì Chân Phật Mật Pháp, tôi đã nghiệm ra được: Khi khí đi vào trung mạch, và di chuyển tại trung mạch, vì giữa khí và trung mạch sẽ sinh ra một sự ma sát, do vậy sinh ra cảm giác về sự sung sướng - hỉ lạc.
Đây là một cảm giác rất tinh tế, một cảm giác mơ hồ siêu thực, một cảm giác dễ chịu lâng lâng, một cảm giác sướng đê mê, giống như sướng muốn chết. (Cảm giác này tương tự như cảm giác cực khoái nhục dục của nam nữ, nhưng, khi khí đi lại trong trung mạch thì dài lâu hơn nhiều và tuyệt vời hơn nhiều.)
Tôi nhận thấy khi tôi nhập định tu pháp, đạt đến trạng thái hỉ lạc, không phải là sự khinh an của những người tu đạo Phật thông thường, mà là một sự hỉ lạc vô cùng kì diệu rất thật. Đây là cảnh giới của Dục Giới Thiên, đây là pháp vị.
Tôi còn muốn nói cho mọi người biết rằng, sự sản sinh ra hỉ lạc không chỉ khi khí thông trung mạch, mà khi chuyết hỏa lên xuống trong trung mạch, khi bồ đề tâm nguyệt dịch lên xuống trong trung mạch thì đều sẽ sản sinh ra "đại diệu hỉ lạc". Hỉ lạc sinh ra từ ba điều này có sự khác nhau. Đương nhiên, chuyết hỏa và bồ đề tâm nguyệt dịch còn vô thượng đại lạc hơn nữa, vô thượng đại lạc đã là cảnh giới của Sơ thiền rồi.
Tôi cho rằng Dục Giới Thiên cũng là một nơi tốt để đến, chỉ cần giữ năm giới và làm mười điều thiện. Trên phương diện tu pháp thì khí đi vào trung mạch thì là đã chứng đắc được Dục Giới Thiên rồi.
🌟
Tịnh quang
Hỉ lạc tại cảnh giới của Dục Giới Thiên khiến người ta mê đắm. Tại cảnh giới này có cảm giác chắc chắn rõ ràng, thực sự là đang cảm thấy được, có cảm giác siêu thắng.
Trong thiền định cũng có bát nhã (trí huệ) sản sinh ra, sự lĩnh ngộ trí huệ này giống như từng bóng khí xoắn chuyển. Khi tôi chủ trì pháp hội thì những bóng khí đầy ắp bay bay khắp nơi. Vào thời khắc này, pháp hội của tôi rất hưng long thịnh vượng. Bởi vì, một khi con người đã chạm tới được "bát nhã" thì đều sẽ cảm thấy pháp vị nồng đượm, có một cảm giác sung sướng về sự lĩnh ngộ.
Từng có lần trong một pháp hội, tôi vô tình phát hiện ra phía sau đầu tôi được che bởi một vòng ánh sáng. Vòng ánh sáng đó "không gian tràn ngập ánh cát tường, trời cao ngào ngạt một mùi hương".
Tôi nghĩ: Hay quá! Lần này tôi đã tu được "tịnh quang" rồi. Tôi biết một khi tịnh quang xuất hiện thì cũng tức là đã lên được cõi Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền của Sắc Giới Thiên rồi.
Thế nhưng, mới sung sướng không được bao lâu thì tôi đã bị dội một gáo nước lạnh.
Quan Thế Âm Bồ Tát nói với tôi: "Vòng tròn ánh sáng trên đầu ngài là do Thiên Đồng Quân cho ngài đó, không phải là do ngài thực tu mà có được đâu. Do vậy, phóng quang có hai loại: một loại là tự phóng quang, một loại là người khác phóng quang. Tịnh quang trên thân ngài là do từ vị khác phóng quang, do vậy đừng có vui mừng quá sớm."
Đến lúc đó tôi mới biết, hóa ra phóng quang cũng có "tự lực" và "tha lực".
Tại cõi trời Sắc Giới Thiên phân ra làm bốn cấp, gọi là bốn cõi thiền, là phân chia theo sự nông sâu của thiền định. Thế giới đó đã không còn hai thứ dục dâm - tham rồi, nhưng vẫn có cung điện, do vậy gọi là Sắc Giới Thiên.
Thông thường người ta hay giải thích Sắc Giới Tứ Thiền Thiên có sự trùng lặp lẫn nhau, khiến người ta có một cảm giác không rõ ràng về giới hạn. Về sau, trải qua sự nghiên cứu của mình, tôi phát hiện điều này là bình thường, bởi vì trong mười tám Thiên của Sắc Giới Thiên, những giác thọ của nó dường như là trùng điệp, nhưng có điểm đặc thù là Sắc Giới Thiên này đã xuất hiện tịnh quang, dựa vào tịnh quang lớn hay nhỏ, độ sáng của ánh sáng, màu sắc của ánh sáng để mà phân biệt.
Tứ Thiền Thiên mà người ta phân chia như sau: Sơ Thiền Thiên - Không còn hai thức mũi, lưỡi, có hỉ lạc. Nhị Thiền Thiên - Không còn ba thức mắt, tai, thân, có hỉ xả, có tịnh quang. Tam Thiền Thiên: Chỉ có ý thức, có lạc xả, có cực tịnh quang. Tứ Thiền Thiên: Chỉ có ý thức, có xả, có vô lượng quang.
Tứ Thiền Thiên mà tôi đúc kết được từ trải nghiệm của mình như sau: Sơ thiền - Thắng lạc diệu hỉ, có phát quang. Nhị thiền - Hoan hỉ tịnh quang. Tam thiền - Cực tịnh quang vĩnh hằng của sự khoái lạc bất động. Tứ thiền - Vô lượng tịnh quang của bình đẳng tính.
Những đúc rút này của tôi, trên thực tế là rất vi diệu, rất sâu rất sâu. Từ Nhị thiền trở lên đều chỉ còn có ý thức mà thôi, bởi vì sự phân biệt của nó nằm ở "hỉ, bất động, vô lượng". Đồng thời, tôi nhận định rằng chỉ cần đến được Tứ thiền thì đã đạt được "bình đẳng tính trí" của Như Lai rồi.
Tiện đây, tôi muốn giải thích một sự thực. Lai lịch tiền kiếp của tôi, mặc dù tôi là ứng hóa thân của A Di Đà Phật, lại có được sự giáo hóa gia trì của Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, Diêu Trì Kim Mẫu phóng quang bảo vệ, ngoài ra, còn được rất nhiều Phật Bồ Tát dạy đạo, thế nhưng không phải tôi sinh ra đã là Phật, vẫn cần phải học từ đầu, từng bước từng bước lên trời.
Một hành giả có "trọng lượng" cũng vẫn cần tự thực hành các pháp tu trì, cho đến khi mở ra được chủng tử của A Lại Da Thức tự tâm, thì mới có thể hiển hiện trí huệ của tiền kiếp. Ý tôi muốn nói rằng nhất định cần phải tiến nhập vào tam muội bí mật, mở ra được LD [ chủng tử thức ] của tiền kiếp, như vậy mới có thể biết rõ hết tiền kiếp của bản thân.
🌟
Tâm mạch ngũ sắc
Học Phật đến cấp độ "thường lạc ngã tịnh", mặc dù chưa phải là cảnh giới cao nhất, nhưng cũng là một cảnh giới tương đối không tồi chút nào. "Thường lạc" là Dục Giới Thiên. "Ngã tịnh" là Sắc Giới Thiên.
Đương nhiên tôi biết "dục lạc định" không phải là cảnh giới cao nhất, nhưng dục lạc định thực sự rất mê hoặc người ta. Tôi thừa nhận, thời gian tôi ở lại trong cảnh giới này là rất dài.
Về sau, tôi trì tụng Cao Vương Kinh, Cao Vương Kinh có linh lực rất lớn, linh lực này từ thời đại nhà Đường đã có sự phát huy rất mạnh rồi. Kinh điển này do tôi ấn chứng được từ trường linh lực của nó là cực kì mạnh, cực kì quan trọng. Sau nữa, tôi nghiên cứu sâu hơn thì biết những gì hàm chứa bên trong cuốn kinh đó có pháp lực của thập phương Phật, thập phương Bồ Tát. Niệm một biến Cao Vương Kinh tương đương với có được sự quán đảnh gia trì của thập phương Phật và thập phương Bồ Tát.
Cảm ứng của tôi khi niệm Cao Vương Kinh như sau. Có một dòng chảy tâm linh thanh tịnh, sức mạnh cực kì lớn đi vào trung mạch trong suốt, có màu đỏ và rỗng của mình. Tâm luân của tôi vốn bị đủ loại phiền não bao bọc thì đột nhiên từng lớp phiền não được cởi bỏ. Chỉ cần tập trung niệm một biến Cao Vương Kinh thì những mạch phiền não được bóc ra một lớp, cho đến khi mạch phiền não hoàn toàn bị bóc ra hết.
Tiếp đó, tôi phát hiện ra ở giữa tâm luân của trung mạch có một sợi tâm mạch ngũ sắc rất mảnh, có thể phát ra ánh sáng.
Cuối cùng, tôi phát hiện ra, thì ra hành giả phát ra ánh sáng mà bản thân tự có thì chính là tâm mạch ngũ sắc. Cái thể ánh sáng này cũng chính là để làm nguồn cho thể cầu vồng trí huệ. Sau khi tôi đắc được và kiến chứng được thể cầu vồng trí huệ, tôi càng chăm tu mạnh mẽ hơn nữa, tùy tu tùy hiện tịnh quang của tự thân mình. Đây là bản giác trí quang, ánh sáng trí huệ này vốn bị ẩn đi, trải qua sự tu luyện mới có được tiến triển.
Tâm mạch ngũ sắc - mạch quang trắng mềm - tịnh quang - minh điểm không quang - ngũ trí quang minh - hồng quang ngũ sắc.
Sau khi nhìn thấy được minh điểm không quang, tự nhiên cũng sẽ nhìn thấy sợi dây kim cang và hóa Phật.
Ở trong cảnh giới tịnh quang, tôi biết đến bốn giai đoạn:
- Tâm mạch ngũ sắc hiển hiện.
- Tịnh quang giác thọ hiển hiện.
- Tịnh quang tăng trưởng.
- Pháp giới hiển hiện.
Tôi cho rằng tiến nhập vào Sắc Giới Thiên phải tu từ tâm mạch ngũ sắc, đây là một phát hiện lớn của tôi. Từ tâm mạch ngũ sắc làm cho trung mạch quang minh, rồi lại làm quang minh đến toàn thân và các lỗ chân lông, cuối cùng là dung nhập vào trong pháp giới, tức thân đắc được thành tựu tịnh quang của Sắc Giới Thiên.
🌟
Vô Sắc Giới
Vô Sắc Giới được gọi trong kinh Phật là nói đến cảnh giới này không có một sắc nào, không có một vật chất nào, không có thân thể, cũng không có cung điện hay quốc thổ, duy chỉ có tâm thức trụ trong thiền định thâm sâu vi diệu. Vô Sắc Giới có bốn Thiên:
- Không Vô Biên Xứ Thiên.
- Thức Vô Biên Xứ Thiên.
- Vô Sở Hữu Xứ Thiên.
- Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên.
Nếu như tôi phân tích theo Tam giới thiên thì sẽ phân chia như thế này:
- Dục Giới Thiên - Phúc đại.
- Sắc Giới Thiên - Huệ đại.
- Vô Sắc Giới Thiên - Không đại.
Tứ Thiên của Vô Sắc Giới là phân chia dựa theo bốn loại thiền định: Hành giả không thích cung điện có sắc, cảm thấy cung điện như nhà tù, có mong muốn thoát li khỏi sắc, thì sẽ bắt nguồn từ hư không Tâm vô biên và Không vô biên mà tương ứng.
Hành giả không thích cảnh giới ngoại không, từ bỏ duyên hư không, nội thức duy tâm, dựa vào thức làm vô biên giải, cùng với Thức vô biên tương ứng.
Hành giả vẫn không thích vô biên nội thức, ngay đến thức và tâm đều muốn xả li, quán thấy tâm thức đều là vô sở hữu, thì sẽ tương ứng cùng Vô sở hữu.
Nhận thức của hành giả vẫn là hữu tưởng, do đó muốn xả li, thì biến thành phi tưởng. Thế nhưng Vô sở hữu xứ là phi tưởng, ngay cả phi tưởng của Vô sở hữu xứ cũng muốn xả li, thế thì sẽ biến thành phi phi tưởng, do vậy sẽ tương ứng với Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên.
Tứ Thiên của Vô Sắc Giới này, sau khi tôi tu xuất được tịnh quang, tôi cũng muốn leo cao hơn, kết quả là tôi phát hiện ra chẳng hề dễ dàng. Tứ Thiên này không đơn giản, không có bậc thang nào để mà leo lên cả. Bốn tương ứng lớn của Tứ Thiên này là: Hư không. Duy thức. Vô hữu. Phi phi tưởng.
🌟
Sau khi tôi đã tu thành công tịnh quang, tôi đứng ở ranh giới của Vô Sắc Giới Thiên, nhìn về Tứ Không Thiên, thấy không có cách nào tiến lên trước. Tôi tự cảm thấy tôi đã đắc đại hỉ lạc, lại tu thành công tịnh quang, thế là đã không tệ rồi, thật sự là: Mênh mông mây khói bay đi Thiên cảnh trong xanh một người. Vừa hay tịnh tâm tịch diệt Ung dung trồng trúc cắm hoa. Hễ thấy chim hạc bay tới, Là nghe đầm tỏa hương sen. Hơn cả thiên thai phạm bối [ ND: Phạm bối là những bài hát hoặc kệ tán ca ngợi đức hạnh của chư Phật. ] Vượt cả hoa nhạc minh hà. [ ND: hoa nhạc là những đỉnh núi hùng vĩ, minh hà là những áng mây rực rỡ.] Nói gì cày mây câu trăng, Nơi đây sống đời ẩn dật. Ngồi lâu u hoài như biển, Tâm rộng như cát vĩnh hằng.
Nhưng, khi đến được Tứ Không Thiên Xứ, phát hiện ra hư không mênh mông, mờ mờ ảo ảo, mịt mịt mùng mùng, tất cả đều vô biên không ranh giới. Đây là cảnh tượng của chân thiền, không phải như bình phàm. Những nhân duyên đại đạo tràn đầy khắp hư không. Những lí thuyết về Vô Sắc Giới là có thật, nhưng làm sao để tu?
Tôi tu theo kinh Bát Nhã, đắc trí huệ tính Không. Tôi tu theo kinh Duy Ma, đắc giải thoát bất khả tư nghì. Tôi tu theo kinh Hoa Nghiêm, đắc được bánh xe tính Không của tam thiên đại thiên thế giới.
Tôi dựa vào Niết bàn tam môn: Không, Vô tướng, Vô tác. Quán chiếu tất cả mọi pháp do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, tự tính vốn ban đầu là không, không có người nào tạo ra, không có người thọ nhận. Người có thể thông đạt được như vậy có thể nhập vào thành giải thoát. Dần dần, tôi đã có được ngộ cảnh.
Một hôm, bỗng nhiên tôi tiến nhập vào Vô Sắc Giới, tiến nhập vào Hư không, Duy thức, Vô hữu, Phi phi tưởng. Có thể mọi người sẽ tò mò! Tiến nhập như thế nào? Không có bậc thang mà?
Ngày hôm nay, tôi thật lòng thật sự nói để mọi người biết, khi tôi dừng lại những giác thọ tu pháp của "đại hỉ lạc", khi tôi cũng dừng cả việc tu luyện bí mật "tịnh quang", tôi dừng lại tất cả các pháp, tôi từ bỏ mọi pháp, hoàn toàn không có một hoạt động gì cả. Khi đó: Tôi tiến nhập vào Vô niệm. Tôi tiến nhập vào Vô tưởng. Tôi tiến nhập vào Phi phi tưởng.
Chính vào lúc này, tôi nhanh chóng vượt qua được Tứ Không Thiên của Vô Sắc Giới, Tứ Không Thiên vô biên vô cùng đã bị tôi nhún chân một cái là có ở khắp nơi. Hóa ra, đại khẩu quyết của việc tiến nhập vào Vô Sắc Giới là năm chữ: "Tất cả pháp đều Không."
Những cảm nhận thiền định thông thường như hư vô điềm đạm, miên man ken dày, mờ mịt lùng bùng, mịt mùng xa xăm, hoặc như tắm đẫm trong biển ánh sáng, hoặc như không biết tâm ở chỗ nào, cũng không có sự phân biệt to nhỏ trong ngoài, bao gồm vũ trụ trên dưới thập phương, cao nhưng chẳng có đỉnh, thấp nhưng chẳng có đáy, kẹt giữa trời đất, đầy khắp bốn biển….
Những dạng cảm nhận trên đều hoàn toàn không có. Như say như mê hay sướng muốn chết đều không có. Tắm đẫm trong tịnh quang cũng chẳng có.
Lúc này, tự tính viên minh của tôi xuất hiện! Tự tính viên minh của tôi và ý thức tối thượng của vũ trụ vốn là một chỉnh thể, hiểu rõ được điều này, tôi đã lập tức minh tâm kiến tính, tự chủ sinh tử. Cảnh giới minh tâm kiến tính này cũng khó mà dùng lời để mô tả giải thích được!
06. Thiên nhãn
Ngũ nhãn
Ở đây, trước tiên tôi viết ra ngũ nhãn [ năm loại mắt ]:
- Nhục nhãn - con mắt vốn có của cơ thể xương thịt.
- Thiên nhãn - con mắt vốn có của người ở Sắc Giới Thiên, có thể nhìn được gần xa, trong ngoài, sáng tối.
- Huệ nhãn - người của Nhị thừa, trí huệ của sự quán chiếu và kiến chứng được chân không vô tướng.
- Pháp nhãn - Bồ Tát độ chúng sinh, quán chiếu và kiến chứng được trí huệ của tất cả pháp môn.
- Phật nhãn - trung đế hết thảy mọi trí, hơn nữa còn có đầy đủ cả bốn loại mắt ở trên.
Trong năm loại mắt này, vì sao tôi lại nhắc đến mỗi thiên nhãn, là bởi vì vào năm tôi 25 tuổi, khi mới gặp được nhân duyên thì tôi đã được Diêu Trì Kim Mẫu mở ra thiên nhãn.
Vì tôi đã có được thiên nhãn, nên vào buổi tối hôm đó, tôi đã đi khắp thiên thượng giới. Về sau tôi mới biết, có hai kiểu có được thiên nhãn thông:
- Do nhân duyên quả báo mà có được thiên nhãn.
- Do tu trì mà có được thiên nhãn. (Trong "Trí Độ Luận", Phật Đà có nói đến.)
Hóa ra, tôi có được thiên nhãn không phải do tu trì mà có được, mà do nhân duyên quả báo mà có. Sau này, tôi tu thành tựu tịnh quang, nhờ vào tịnh quang và nhãn thức tương ứng mà đã khiến cho thiên nhãn của bản thân trong tất cả mọi hoàn cảnh đều thông đạt hơn, không còn chướng ngại. Tôi đã đắc được "thiên nhãn trí chứng thông", thiên nhãn lực của tôi rõ ràng phân minh, cũng không thể hỏng, không gì vượt qua được.
Đương nhiên, cũng có rất nhiều pháp sư sẽ nghi ngờ Lư Thắng Ngạn thật sự có thiên nhãn sao? Không chỉ có những người ngoại giới nghi ngờ, đệ tử của Chân Phật Tông cũng có thể nghi ngờ. Những suy nghĩ ngờ vực này, tôi nghĩ rằng cũng khó tránh khỏi.
Ví dụ: Đệ tử Chân Phật Tông không đồng đều, tốt xấu lẫn lộn, lẽ nào Lư Sư Tôn không quan sát kĩ rồi mới thu nhận đệ tử? Thượng sư của Chân Phật Tông, có những người tâm thuật rất bất hảo, vì sao Lư Sư Tôn lại quán đảnh cho họ làm A-xà-lê? Nếu như Lư Sư Tôn có thiên nhãn, vì sao biết được có người bí mật làm hại mình mà lại không biết cách để trốn đi? Trong đám Thượng sư, cũng có người thối lui đạo tâm, cũng có người tự tạo đỉnh núi riêng, có người có thiên nhãn, lẽ nào không biết sao?
Những nghi ngờ này cũng rất hay, tôi trả lời như sau: Tôi từng phát nguyện không từ bỏ một chúng sinh nào. Do vậy, cho dù là kẻ phạm tội sát nhân, kẻ hãm hiếp, kẻ cướp, kẻ trộm, kĩ nữ, kẻ lừa đảo, kẻ lang thang, kẻ nghiện rượu, đều là đệ tử của tôi. Thượng sư của Chân Phật Tông kì thực có người tâm thuật rất xấu, tôi cũng sớm biết rồi, chỉ là tôi vẫn luôn nghĩ để họ làm A-xà-lê, cứu lấy bản thân họ. Khi quán đảnh, tôi đặc biệt nhấn mạnh: "Hôm nay, ta ban quán đảnh A-xà-lê này, nếu không tức thân thành Phật thì sẽ xuống địa ngục kim cang, có đồng ý không?" Họ miễn cưỡng đáp: "Đồng ý." Chính vì họ đồng ý, nên tâm từ bi của tôi đã cho họ một cơ hội!
Có người muốn bí mật làm hại tôi, vì sao tôi không biết mà tránh? Nói thẳng ra là tôi biết thừa, từ sớm cũng đã có sự dự phòng rồi, tôi đã giảm thiệt hại đến mức ít nhất rồi. Trong mỗi sự việc như vậy, tôi đều khiến cho đối phương không còn kế nào mà dùng nữa. (Trong việc này còn liên quan đến một chút nhân duyên, nhưng tôi cũng sớm biết rồi.)
Trong đám Thượng sư, có người thối lui đạo tâm, có người tự lập đỉnh núi riêng, tôi không biết sao? Tôi trả lời, đương nhiên là biết.
Chỉ là, những việc này đều là duyên phận thôi! Có duyên sâu, có duyên nông, có duyên dài, có duyên ngắn, có khi thì tiền duyên tốt hậu duyên xấu, có khi thì tiền duyên xấu hậu thiên tốt, tất cả những điều này đều là lẽ rất tự nhiên. (Tôi sớm đã dùng thiên nhãn quan sát.)
Tôi là người theo quan điểm tự nhiên, tôi tận tâm tận lực truyền dạy Chân Phật Mật Pháp chỉ với quan điểm như vậy mà thôi. Còn đối với những đám Thượng sư, đám đệ tử thối lui đạo tâm, tự mình lập đỉnh núi riêng thì đó là duyên phận của bọn họ.
Có người hỏi: "Đã biết thế rồi sao còn vẫn làm?" Tôi đáp: "Tâm từ bi của tôi là vô lượng, rồi sẽ có một ngày họ hiểu ra, vẫn có ngày quay đầu quy y Chân Phật!" "Có người vào Chân Phật Tông, rồi lại ra khỏi Chân Phật Tông, rồi lại vào Chân Phật Tông, rồi lại rút khỏi Chân Phật Tông, vậy phải làm sao?" Tôi đáp: "Đợi họ." "Đợi không được thì sao?" "Đợi đến kiếp sau!" "Đến kiếp sau vẫn đợi không được thì sao?" "Đợi nghìn nghìn vạn vạn kiếp!" - Tôi nói.
Tôi dùng thiên nhãn quan sát, đương nhiên biết được tâm niệm của các đệ tử, cũng biết duyên phận giữa tôi và đệ tử, thế nhưng, bảo tôi phải nói sao đây? Tôi thích thuận theo duyên phận, cứ để tự nhiên, tôi không thích miễn cưỡng. Tôi chỉ là tận lực hoằng dương Phật pháp, mặc dù biết việc thiên hạ, nhưng tôi chỉ có cười vào nó mà thôi, còn lại chẳng nói gì.
🌟
Mật tông Hắc giáo
Bởi truyền thụ Chân Phật Mật Pháp, hễ nhắc đến Mật tông, có người liền nói đến Hắc giáo Lâm Vân, là bởi vì lí do là Lâm Vân là nhân vật đầu tiên chỉ trích tôi.
Đầu tiên tôi nghiên cứu về Hắc giáo, hóa ra Hắc giáo có từ khi Mật giáo chưa vào Tây Tạng. Tôn giáo ban đầu của người Tạng là đạo Bon, họ quan điểm rằng vạn vật đều có thuyết tâm linh. Đạo Bon có chú thuật, có làm pháp, nguồn gốc của nó là "Ta Bì La chú thuật", cách làm pháp của nó là "La Nhĩ Già pháp". Ví dụ, dùng hạt cải và các loại thuốc độc, hai loại kết hợp lại, làm tượng của đối phương, bôi lên tượng này, niệm chú gia trì, khiến cho kẻ đó như bị lửa đốt, nhanh chóng bị trúng thương.
Hắc giáo hoàn toàn không phải là Mật tông, chỉ là về sau có sự đấu tranh lẫn nhau với Mật tông, cuối cùng bị Mật tông đồng hóa và dung hợp, các tín đồ Hắc giáo quy y Mật giáo. Tôn giáo vốn có ban đầu ở Tây Tạng cũng đã biến mất sạch sẽ ngay tại Tây Tạng.
Tôi đặc biệt quan sát Lâm Vân. Ông ta giảng khí, giảng phong thủy, giảng thuyết linh tử, xuất thế giải, nhập thế giải, nói về các vị Lama đại đức của truyền thừa Hắc giáo…
Tôi phát hiện ra ông ta đọc một ít sách, phát triển một số pháp thuật do ông ta tự nghĩ ra. Ông ta giảng phong thủy hoàn toàn khác với các đại sư phong thủy trước đây. Ông ta giảng về thuyết linh tử thì cũng là vạn vật có thuyết tâm linh.
Giảng xuất thế giải, nhập thế giải, hoàn toàn là bẻ cong Phật pháp. Ông ta nói về truyền thừa, rằng 6 tuổi đã học Mật pháp, hoàn toàn không có gì đối chứng cả.
Tôi thật lòng thật sự nói cho mọi người biết rằng ngay từ đầu tôi đã chú ý đến và có sự tò mò đối với Lâm Vân của Mật tông Hắc giáo. Về sau, ngược lại, tôi còn rất ngưỡng mộ trí tuệ thông minh của ông ta. Ông ta có thể biến trắng thành đen, biến đen thành trắng, biến 21 pháp Độ Mẫu của Mật tông thành Hắc giáo đại pháp của chính ông ta.
Trộm ở chỗ này một ít, trộm ở chỗ kia một ít, tự mình nghĩ ra một ít, thế là biến thành một cuốn Hắc giáo đại pháp đơn giản dễ hiểu rồi.
Kể cũng lạ là lại có nhiều người như vậy theo ông ta đi khắp nơi và gọi ầm lên "Anh Hai", "Anh Hai". Thật là quá kì quái!
Nhưng tôi dùng thiên nhãn để nhìn khí của ông ta, thì hóa ra là có lý do, nên lại không có gì là kì quái. Trên người Lâm Vân quả nhiên có một đám khí tồn tại, nhưng đám khí này hoàn toàn không phải do ông ta tự tu mà có, mà là khí này bám lên người ông. Bản thân Lâm Vân khả năng cũng không biết có khí này bám lên người mình, vẫn còn cho rằng bản thân hướng về mặt trời hít khí, hít vào trong người mình nên trên người đã có khí này. Bởi vì Lâm Vân có đám khí này bám lên người giúp đỡ ông ta, nên ông ta có thể kêu gọi rất nhiều người đi theo ông, ví dụ như minh tinh, các giáo sư, học giả, danh nhân, chính trị gia, v.v… đều bị đám khí này hút chặt vào.
Tôi chú ý xem đám khí này đang làm cái gì? "Nó" mượn thân của Lâm Vân, hít nạp quang khí trên thân của những người xung quanh Lâm Vân, nói cách khác là "nó" bám trên người Lâm Vân, và sau đó "ăn" các đệ tử của Lâm Vân. Ở đây giống như một vòng tuần hoàn, từng nhóm từng nhóm người của Lâm Vân kéo đến, rồi từng nhóm từng nhóm bỏ đi, nhưng những nhóm người đã bị đám khí kia hút chặt thì sẽ cảm thấy ngày càng yêu thích, không thể từ bỏ được. Cho đến khi đám khí này không cần họ nữa thì họ mới bừng tỉnh khỏi giấc mộng dài!
Đám khí này quả nhiên lợi hại. Tuy nhiên, tôi nghĩ đến một ngày, đám khí này không còn cần Lâm Vân nữa, lúc này thì Lâm Vân thảm rồi, chẳng mấy chốc mà ông ta sẽ suy sụp, từ đầu đến chân chẳng còn chút sức mạnh nào, giống như quả bóng bị xẹp hết khí vậy. Lúc này thì trên người sẽ gặp đủ thứ bệnh, lúc đó thì mới tỉnh ngộ rằng nhân quả của mình đã đến rồi.
Tôi nhận ra được đám khí này, nó chính là con trưởng của Đại Tự Tại Thiên, nó rất thô và đen, cái mũi thì to dài, giống như thân người mũi voi vậy. Con trưởng của Đại Tự Tại Thiên này thích nữ sinh, do vậy tự nhiên mà có rất nhiều nữ sinh đặc biệt yêu thích đám khí này.
Kì thực, Lâm Vân hay giảng về khí, thì ông ta nên biết rằng, những vị yogi tu khí, nếu như là khí do chính mình tu thành công thì rất kiên cố, bản thân có thể vận dụng nhuần nhuyễn. Còn nếu đám khí có khi mạnh, có khi yếu, có khi nóng, có khi lạnh, trên trên dưới dưới, vào vào ra ra, thì đó không phải là khí do tự mình tu được, là không phù hợp.
Có con trưởng của Đại Tự Tại Thiên - Nga Na Bát Để ở trên người của Lâm Vân, chắc chắn ông ta sẽ có được một ít linh nghiệm nhỏ, nhưng những việc linh nghiệm lớn thì không dám bảo đảm. Hơn nữa, nếu như Nga Na Bát Để không cần Lâm Vân nữa thì trong chốc lát Lâm Vân sẽ mất hết tất cả, nói cách khác là tất cả sức mạnh tinh khí đều không còn.
Còn nữa, Nga Na Bát Để cần ăn nhiều, còn lượng thức ăn của Lâm Vân thì sao? Tôi không rõ, nhưng dựa trên nguyên lí về việc gửi thân thì nó nhất định là rất tham ăn. Nga Na Bát Để thích nghệ thuật, có thiên phận nghệ thuật, có thiên phận với thú vui chơi, tự nhiên cũng sẽ thích những trò giải trí, nó là thể tổng hợp của nửa thiện nửa ác.
Chúng ta tìm hiểu xem vì sao Đại Tự Tại Thiên lại ở nhờ vào Lâm Vân Hắc giáo, thì ra, Đại Tự Tại Thiên là chủ thần của giới ngoại đạo, ở đỉnh của Sắc Giới là chủ của ba nghìn giới. Nguồn gốc như vậy thực sự là không nhỏ. Còn Phật pháp của Lâm Vân Hắc giáo thì đương nhiên không phải là Phật pháp chính thống, cũng chẳng phải là Mật tông chính thống, do vậy, có nhân của ngoại đạo thì mới có chủ của ngoại đạo - duyên của Đại Tự Tại Thiên. Điều này hợp logic rồi.
Hơn nữa, Đại Tự Tại Thiên có ba mắt tám cánh tay, cưỡi trâu trắng, sống tại Sắc Giới, Mật giáo thông qua ngài để làm ứng hiện của Đại Nhật Như Lai, nghĩa là bản địa của Đại Tự Tại Thiên lại cũng chính là Đại Nhật Như Lai. Lâm Vân Hắc giáo đề xướng pháp hít khí mặt trời, nhưng không hít được Đại Nhật thì đương nhiên sẽ hít phải khí của con trưởng Đại Tự Tại Thiên, đây cũng là nhân duyên.
Trong Mật giáo, Đại Tự Tại Thiên này cũng có pháp tu trì: Đại Thánh Hoan Hỉ Thiên song thân bì na da già pháp. Đại Thánh Hoan Hỉ Thiên song thân danh lợi tu trì nghi quỹ. Đại Thánh Hoan Hỉ Thiên song thân đại tự tại pháp.
Về mặt tốt, có con trưởng Đại Tử Tại Thiên ở trên thân thì tiếng tăm của người này càng ngày càng nổi tiếng, nhất định sẽ thành tên tuổi lớn, tiền tài lợi lộc cũng rất nhiều, có thể nói rằng phúc báo rất lớn.
Về mặt xấu, người cùng lúc có cả danh và lợi, nếu không phải là người thực tu, thì khí thế này sẽ có hạn, đến khi con trưởng Đại Tự Tại Thiên rời bỏ đi thì ác vận lập tức giáng xuống, lúc này có kêu trời gào đất cũng chẳng có tác dụng gì. Đây gọi là vận hết thì hoàng kim cũng biến thành sắt thép.
Còn trên phương diện trộm khí, hành giả chúng ta biết rằng, chư Thiên quỷ thần lấy khí làm thức ăn, đặc biệt là Nga Na Bát Để, kĩ năng của nó chính là trộm khí. Tôi đã nhìn ra, không phải Lâm Vân hít khí của các đệ tử, mà là Nga Na Bát Để bám trên người Lâm Vân, hít quang khí trên người các đệ tử của Lâm Vân, hết đợt này đến đợt khác.
Tôi thấy Lâm Vân Hắc giáo, có ngày cũng sẽ khô cạn mà chết. Giả dụ tôi là Lâm Vân, tôi sẽ tu hỏa cúng Đại Uy Đức Kim Cang Hộ Ma, thỉnh Đại Uy Đức Kim Cang hiện thân. Đại Uy Đức Kim Cang có 16 chân, chân phải dẫm đạp lên người, trâu nước, trâu vàng, lừa, lạc đà, chó, dê, quả bầu, chân trái dẫm đạp lên chim kền kền, quạ, vẹt, chim ưng, đại bàng, gà, hạc. Ngoài ra còn có các loại chư Thiên như Phạm Thiên, Đế Thích, Thiên Nhập Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Lục Diện Đồng Thiên, Tà Dẫn Thiên, Nguyệt Thiên, Nhật Thiên. Thiên chúng cũng do Đại Uy Đức Kim Cang cai quản, thỉnh Đại Uy Đức Kim Cang đến thì con trưởng Đại Tự Tại Thiên Nga Na Bát Để không đi không được.
Một khi Nga Na Bát Để bỏ đi, Lâm Vân Hắc giáo phải tu kết giới năm tầng: nền móng kim cang, cột kim cang, tường kim cang, lửa kim cang, lưới kim cang. Có kết giới rồi, Nga Na Bát Để sẽ không quay trở lại để bám vào thân hút khí nữa.
Rồi khẩn trương tu pháp "thủ đan". Nhờ đó, đan thành khí túc, sẽ không bị khô kiệt nữa!
🌟
Sơn Vương Tinh Vân
Trong cuốn sách này của tôi, nhân vật thứ hai xuất hiện là Tinh Vân đại sư. Kì thực, sự nghiệp Phật giáo mà Tinh Vân gây dựng còn lớn hơn cả Lâm Vân, lẽ ra nên xuất hiện đầu tiên, đặc biệt là thế lực của Lâm Vân nay đã yếu đi rồi, khí đen đã che phủ toàn thân, còn thế lực của Tinh Vân thì vẫn như mặt trời giữa trưa. Tuy nhiên, vì sao Lâm Vân lại đứng thứ nhất, còn Tinh Vân xếp thứ hai?
Thứ tự xuất hiện này là do tôi phân theo sự chú ý của tôi. Tôi chú ý đến Lâm Vân trước, sau đó mới chú ý đến Tinh Vân. Ở đây là do sự chú ý trước sau của tôi, không phải là tôi phân biệt dựa trên thành tựu của họ. Do vậy, cứ theo thứ tự như thế, tôi sẽ dùng thiên nhãn để quan sát lần lượt.
Có lão tăng nói: "Cao linh ở sau lưng của Tinh Vân đại sư là Thái Âm Sơn Phủ Quân." Còn bây giờ, tôi nhận định như sau: "Tinh Vân đại sư là Sơn Thần chuyển thế."
Khi Tinh Vân đại sư mới ra đời, theo như chính ông ta thuật lại, vừa ra đời thì sắc mặt có một đám đỏ, một đám xanh, một đám trắng, giống như là bị bệnh mặt nở hoa rất nặng vậy. Hàng xóm láng giềng đồn đại rằng mẹ của Tinh Vân đã sinh ra một yêu quái. Tin đồn yêu quái này xa gần đều hay, cũng tương đối gây xôn xao.
Khi Tinh Vân còn nhỏ, sắc mặt kì dị đó cũng không lập tức hết ngay, mà phải sau mấy năm mới dần dần hết. Trong thời gian này, Tinh Vân luôn bị nhốt trong nhà, không được ra ngoài, để tránh không bị người ta làm ầm lên.
Theo Tinh Vân tự thuật thì hóa ra, đây là dị tật bẩm sinh, trong số mệnh đã định là tương lai sẽ làm một đại hòa thượng.
Tôi gọi nguyên thần của Tinh Vân đến, dùng thiên nhãn để quan sát. Mặt lớn ngũ hoa, hai con mắt sáng, đỉnh đầu da thô, miệng rộng lưỡi dài, thân thô, lưng vai rộng, bụng to lớn, hai bên mai tóc đỏ như lửa, bộ râu vàng dưới cằm như được cắm vào. Tinh Vân đại sư rõ ràng là hòa thượng. Vì sao lại xuất hiện một nhân vật thô ráp có tóc có râu như vậy! Tôi vừa nhìn thì phát hiện ra, đây không phải là Sơn Thần thì là cái gì!
Trong quá khứ, tôi đã từng gặp rất nhiều Sơn Thần. Thần Núi của mỗi ngọn núi đều có hình dáng khác nhau, nhưng có cùng một điểm chung là mặt của Sơn Thần thường hay thích vẽ lên một đám màu xanh, một đám màu đỏ, một đám màu trắng, rất giống với vị tù trưởng của thổ dân Indian ở Mỹ. Ở Đài Loan, những Sơn Thần mà tôi đã từng gặp đều có hình xăm trên mặt.
Lúc tôi mới gặp nguyên thần của Tinh Vân đại sư, tôi giật thót mình, rõ ràng là Sơn Thần. Sau này tôi mới đọc được những lời tự thuật của chính ông rằng khi ông mới sinh ra thì mặt đã lốm đốm hoa rồi. Lúc này tôi đã ấn chứng được thiên nhãn của bản thân, Tinh Vân là Sơn Thần chuyển thế.
Có lẽ mọi người sẽ hỏi, Tinh Vân chỉ là Sơn Thần, khoảng cách giữa Sơn Thần với chư Thiên vẫn còn xa, vì sao sự nghiệp Phật giáo của ông ta lại to lớn như vậy?
Hôm nay, tôi giấy trắng mực đen viết chương sách này chính là để chứng minh điểm này. Mọi người cần biết, cần so sánh tài phúc. Ở trên trời thì Tứ Đại Thiên Vương là giàu có nhất, trên biển thì Long Vương là giàu có nhất, còn ở trên mặt đất thì Sơn Vương là giàu có nhất. Tinh Vân là Sơn Vương chuyển thế, sau lưng lại có Thái Âm Sơn Phủ Quân hỗ trợ cho mọi vị Sơn Vương, nếu mà Tinh Vân không giàu thì ai có thể giàu đây?
Cần biết rằng, những người giàu có ở nhân gian chỉ cần có được Địa Thần giúp đỡ thì họ sẽ giàu có. Một Địa Thần giúp đỡ một người giàu cỡ nhỏ, mười Địa Thần giúp đỡ cho một người giàu cỡ trung bình, trăm Địa Thần giúp cho người giàu cỡ bự, còn nghìn vạn Địa Thần giúp đỡ thì đương nhiên sẽ là hàng đại gia cực phẩm rồi.
Hơn nữa, địa vị của Sơn Thần còn cao hơn Địa Thần, Thái Âm Sơn Phủ Quân là vị đứng đầu mọi Sơn Thần, một hiệu lệnh của ngài đưa ra thì tất cả mọi ngọn núi đều chấn động. Tinh Vân chắc chắn sẽ trở thành người rất giàu có, điều này có thể khẳng định!
Tinh Vân chọn Phật Quang Sơn để bắt đầu xây dựng cơ nghiệp, sau đó phát triển sự nghiệp Phật giáo của ông, giống như núi lửa phun trào vậy, rất mau chóng lan tỏa ra khắp thế giới!
Ai có mắt thì đều thấy Sơn Vương Tinh Vân:
- Tuyên truyền thành công.
- Quán Quang Phật tự thành công.
- Gây dựng chủ nghĩa sơn đầu thành công.
- Tổ chức thành công.
- Kinh doanh thành công.
- Chính trị thành công.
- Sự nghiệp nhân gian thành công.
- Là người lãnh đạo tinh thần thành công.
Tôi phân tích Sơn Vương Tinh Vân có tám thành tựu lớn này. Tám đại thành tựu này là quá đủ để đẩy một con người lên đỉnh cao nhất ở nhân gian.
Cần phải biết pháp lực của Thái Âm Sơn Phủ Quân, đừng coi thường ngài chỉ là vua của mọi ngọn núi, kì thực cũng có thể xem ngài có phẩm vị của Địa Tiên, là: Thân lẫm liệt oai hùng, Khí oai vệ bề thế Mắt sáng bừng như điện Tiếng rung như sấm rền.
Chủ nghĩa sơn đầu, sự nghiệp Phật giáo nhân gian, tổ chức thương nghiệp chính trị, nhà lãnh đạo tinh thần, v.v… của Tinh Vân đại sư đều là những đặc tính của Sơn Thần, Sơn Thần thích địa vị và thành tựu cao ở mức độ Quốc Vương.
Tinh Vân cũng tự so sánh mình là Quốc Vương độ chúng. Tôi quan sát Tinh Vân đại sư, sự nghiệp nhập thế của ông to lớn hơn sự nghiệp xuất thế, đây là đặc tính của Sơn Thần, bởi vì duyên phận của Tinh Vân đại sư là gắn liền với đại địa!
Tuy nhiên, có một câu nói thế này: "Bất tục tắc Phật cốt, đa tình tức Bồ Tát." [ ND: không còn như phàm tục - lụy tục thì là có cốt cách của Phật, còn nếu có tình thương lớn thì là Bồ Tát.]
Trong con mắt của tôi, Tinh Vân đại sư có chút thô tục, tục khí khắp từ đầu đến chân khiến người ta cảm giác chỉ cần đến gần là sẽ bị ô nhiễm. Còn sự đa tình của ông ta chính là tục tình, một kiểu giao tiếp xã hội khách sáo mà thôi, tôi thực sự không nhịn được mà chỉ trích ông ta bởi vì thô tục cũng chính là đặc tính của Sơn Thần, có tác phong của sự hoang dại lỗ mãng.
Ngoài ra, nói về linh tính của ông ta, thì chỉ là một phàm phu, công phu thực tu thì khỏi phải bàn, nói cách khác là căn bản không hề có thực tu. Phật pháp của ông ta là đem Phật pháp của Phật Đà viết thành văn tự, đưa lên miệng, đưa đến khắp nơi trên thế giới, đưa đến đông, đưa đến tây, đưa tới đưa lui. Ông ta không biết Phật pháp là chính mình, chính mình là Phật pháp, do vậy vẫn chỉ là một phàm phu, một Sơn Thần thô tục.
Thôi thì cũng xem như trò phô trương Phật pháp của Tinh Vân đại sư cũng là một trong những công đức của ông ta vậy! Công lực chân chính của Tinh Vân đại sư chẳng thấy được phát huy ra, chủ yếu là do ông ta không có thực tu, đến bây giờ ông ta vẫn còn chưa hiểu rõ tu thế nào nữa!
Sơn Vương Tinh Vân có phúc báo lớn, có Thái Âm Sơn Phủ Quân ở sau lưng giúp đỡ, nhưng, loại phúc báo nhân gian này rốt cục cũng chỉ là không, là huyễn mà thôi. Có người hỏi: "Sự nghiệp nhân gian do Sơn Thần kiến lập khổng lồ như vậy, ngược lại, sự nghiệp nhân gian nếu do Phật Bồ Tát chư Thiên kiến lập lại nhỏ, là nguyên nhân gì?" Tôi đáp: "Sơn Thần ở nhân gian xây dựng sự nghiệp, do vậy mà lớn. Phật Bồ Tát chư Thiên ở hư không xây dựng sự nghiệp, do vậy mà nhỏ. Ở đây là chỉ sự nghiệp hữu hình, nói cách khác là sự nghiệp của Sơn Thần là cái hữu hình, còn sự nghiệp của Phật Bồ Tát chư Thiên là vô hình."
Có một bài kệ như sau: Miên man lau tâm địa, sạch cảm xúc bụi trần, Chớ để những vũng bùn vùi che lấp Tì Lô. Bản thể thường thanh tịnh, nên theo lẽ nguyên sơ, Tính bẩn cần thanh lọc, hít thở như suối trong, Đừng để thanh khí nhảy nhót chạy lung tung Ngày đêm thở như thế, sẽ hiển hiện công phu.
🌟
Hội Từ Tế của pháp sư Chứng Nghiêm
Trong bảng xếp hạng của tôi, Chứng Nghiêm pháp sư xếp ở vị trí thứ ba. Đương nhiên, sự nghiệp từ tế mà bà đã kiến lập nên khiến tôi rất kinh thán, kinh là kinh ngạc, tán là tán thán!
Là cái tên thứ ba trong bảng xếp hạng của tôi, hoàn toàn không phải là chỉ sự nghiệp Phật giáo của bà không to lớn bằng Tinh Vân, hoàn toàn không phải là chỉ tên tuổi khí thế không lớn như Lâm Vân. Trên thực tế, là một vị tì kheo ni nhỏ bé, danh dự, địa vị, sự nghiệp mà bà đã gây dựng nên đều vượt qua cả tiếng tăm và uy thế của hai người trước, thực sự không hề tầm thường.
Xếp ở vị trí thứ ba trong bảng xếp hạng của tôi, như tôi đã nói, đây là tôi căn cứ theo sự chú ý của mình để sắp xếp, không phải dựa trên việc đánh giá tiếng tăm vị thế.
Điều mà pháp sư Chứng Nghiêm khiến tôi kinh ngạc là, bà ấy là một phụ nữ, thân thể bẩm sinh đã không khỏe, trên phương diện học hành cũng không có gì nổi bật. Khi bà mới xuất gia theo đạo thì cũng yếu ớt, dường như chẳng thể thấy một chút khí thế nào. Vậy chuyện này là thế nào?
Điều khiến tôi ca ngợi là, là một tì kheo ni nhỏ bé như vậy mà có thể tạo lập nên tổ chức cứu trợ thế giới lớn như thế, biết đâu cũng có nhân duyên quả báo gì ở đây. Đương nhiên tôi tán thán công đức bố thí của bà ấy, có thể kêu gọi người người làm việc thiện, bố thí, là người số một trong lục độ ba la mật của Bồ Tát.
Câu cửa miệng của pháp sư Chứng Nghiêm thường hay nói là: "Mọi người chúng tôi đến làm việc thiện."
Kinh Niết Bàn nói: "Mọi vật đều có thiện căn, từ bi là căn bản."
Pháp bố thí, như kinh Hoa Nghiêm có nói: "Bồ Tát là đại thí chủ, tất cả tài vật đều bố thí hết cho chúng sinh không chút hối hận, không mong được quả báo, không cầu danh dự, không cầu nơi ở tốt, không cầu được hỗ trợ lợi ích, chỉ mong cứu giúp tất cả chúng sinh, muốn hành động vì lợi ích của chúng sinh, muốn suốt đời học theo chư Phật, muốn thọ trì sự nghiệp của chư Phật, muốn hiển hiện sự nghiệp của chư Phật, muốn làm cho tất cả chúng sinh hết khổ được vui."
Tôi dùng thiên nhãn quan sát thì thấy: Diêu Trì Kim Mẫu đến. Tôi giật nảy mình, lẽ nào sau lưng của pháp sư Chứng Nghiêm là Diêu Trì Kim Mẫu? Tôi không dám tin, Diêu Trì Kim Mẫu là Đạo giáo, pháp sư Chứng Nghiêm là Phật giáo, chuyện này sao có thể. Tôi hỏi: "Con quan sát pháp sư Chứng Nghiêm, thế mà Kim Mẫu lại đến trước, không biết là vì sao?" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Kì thực pháp sư Chứng Nghiêm và ta có một chút nhân duyên."
Lúc này, tôi há hốc miệng, mắt chữ O mồm chữ A. Kim Mẫu nói: "Khi pháp sư Chứng Nghiêm mới xuất gia, chỉ là một ni cô nhỏ bé không có chỗ nào để dung thân. Cô đã vượt núi vượt sông đến Đài Đông ở miền đông Đài Loan. Bởi không người thân thích, không có chùa Phật nào nhận cho ở lại, thế là miếu Vương Mẫu Nương Nương ở thôn Lộc Dã đã nhận cho cô ở lại."
Miếu Vương Mẫu Nương Nương ở thôn Lộc Dã, Đài Đông đã cho pháp sư Chứng Nghiêm được ở lại. Trong hai tháng này, pháp sư Chứng Nghiêm đã khóc liên miên, đau khổ mà không có nơi nào để giãi bày, bèn quỳ xuống cầu Vương Mẫu Nương Nương. Vương Mẫu Nương Nương nhìn thì thấy: "Đây là một cô gái hiếu thuận." Bởi vậy, Vương Mẫu Nương Nương vô cùng cảm động, phóng ra một tia sáng tạo thành một chiếc vòng tay như ý, đeo lên cổ tay của pháp sư Chứng Nghiêm. Chiếc vòng tay như ý này tuy là vô hình, nhưng vì có được sự tỏa sáng của chiếc vòng tay như ý mà về sau, vận khí của tì kheo ni Chứng Nghiêm dần dần càng ngày càng thuận lợi.
"Vương Mẫu Nương Nương nào?" - Tôi hỏi. "Chính là Diêu Trì Kim Mẫu, Kim Mẫu Vương Mẫu, tên khác nhưng cùng là một." - Diêu Trì Kim Mẫu đáp. Tôi lại hỏi: "Vậy thì vị cao linh ở sau lưng pháp sư Chứng Nghiêm chính là Diêu Trì Kim Mẫu rồi!" Diêu Trì Kim Mẫu đáp: "Cũng không phải, ta chỉ là giúp pháp sư ấy một tay thôi, vị cao linh phía sau lưng pháp sư ấy thực sự là Địa Tạng Vương Bồ Tát." "Sao lại là Địa Tạng Bồ Tát?" Kim Mẫu đáp: "Vì một chữ, Hiếu."
Tôi đã từng giảng "Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện kinh", biết được rằng kinh này là do Phật Đà bay đến Đao Lợi Thiên Cung chuyên để thuyết pháp cho mẹ Ngài. Trong bản kinh này có rất nhiều những người con gái có hiếu, đều là những kiếp trước của Địa Tạng Bồ Tát, cả cuốn "Địa Tạng kinh" thì bất kì câu nào cũng có thể nhìn thấy sự hiếu thuận. Địa Tạng Bồ Tát là chuyển hóa của những người con gái hiếu nghĩa, ví dụ như cô gái Bà-la-môn, cô gái Quang Mục đều là ngài. Nay, pháp sư Chứng Nghiêm cũng là một người phụ nữ hiếu thuận, do vậy dựa theo nhân duyên, vị cao linh sau lưng bà ấy quả nhiên là Địa Tạng Bồ Tát, không còn nghi ngờ gì.
Tôi quan sát mà biết được: Hiện tại không chỉ có Địa Tạng Bồ Tát là vị cao linh ở sau lưng của bà, mà chín vị Bồ Tát của Địa Tạng Viện ở Thai Tạng Giới cũng xuống để giúp đỡ bà, chín vị Địa Tạng này là: Bi Mẫn Bồ Tát, Thi Vô Úy Bồ Tát, Hiền Hộ Bồ Tát, Bất Tư Nghì Tuệ Bồ Tát, Bi Mẫn Tuệ Bồ Tát, Từ Phát Sinh Bồ Tát, Sách Chư Nhiệt Não Bồ Tát, Nhật Quang Bồ Tát, Phá Ác Thú Bồ Tát.
Căn cứ theo yếu tố thân thể của pháp sư Chứng Nghiêm, tôi kiến nghị bà ấy nên tu pháp quán tám điều Không của Tam Luận Tông:
- Bất sinh bất diệt - gương sáng soi hình, tùy duyên mà thị hiện huyễn hóa.
- Bất đoạn bất thường - nước sông luôn đổi, chưa từng gián đoạn.
- Bất nhất bất dị - chụp ảnh một người, tư thế không là một.
- Bất lai bất xuất - như người trong vở kịch, như đến như đi.
Bằng cách này, trực tiếp thâm nhập vào tính Không, có thể đạt được đại thành tựu.
Đối với sự nghiệp cứu tế nhân gian của bà: Như là nhân. Như là duyên.
Cũng có rất nhiều người nói, pháp sư Chứng Nghiêm là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, cũng có người nói là hóa thân của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát. Đây chỉ là do thế nhân tự gán cho là thế mà thôi, bởi vì Quan Âm là hóa thân từ bi mà! Còn có thật là thế không? Hãy hỏi chính bản thân bà ấy thì biết rõ nhất!
🌟
Thanh Hải Vô Thượng Sư và Đại Phạm Thiên
Thanh Hải Vô Thượng Sư là nhân vật thứ tư mà tôi chú ý đến, do vậy, bà ấy là người thứ tư xuất hiện. Thanh Hải là hiệu của bà ấy. Vô Thượng Sư là một trong mười cách xưng hô lớn của Phật. Do vậy, Thanh Hải Vô Thượng Sư cũng tương đương với Thanh Hải Phật.
Bà ấy là một nhân vật một mình tu hành rất đặc biệt. Phật pháp mà bà giảng hoàn toàn khác so với Phật pháp nói chung, do vậy, giới Phật giáo la ó công kích bà.
Một đại cư sĩ của giới Phật giáo - cư sĩ Trần Huệ Kiếm trong luận văn Phật học của mình đã xếp tôi là nhân vật lớn số một, còn Thanh Hải Vô Thượng Sư là nhân vật lớn thứ hai. Hai nhân vật này cũng chính là hai nhân vật chính nhất trong luận văn của Trần Huệ Kiếm.
Ngoài ra, "Tuyển tập pháp sư Huệ Luận diễn giảng" cũng chỉ trích tôi đầu tiên và chỉ trích Thanh Hải Vô Thượng Sư thứ hai. Ông ta nói bằng tiếng Đài Loan: "Thanh Hải, cái đồ đàn bà!"
Cái đồ đàn bà, rốt cục là thế nào mà khiến cả giới Phật giáo sốt xình xịch, khiến giáo giới giậm chân bình bịch!
Lý lịch của Thanh Hải Vô Thượng Sư không cần phải chiếm ít giấy mực ở đây, tóm lại, bà là một tì kheo ni xuất gia người Việt Nam. Bà ấy từng ở Ấn Độ học chú ngữ của đạo Xích (Sikh), nhờ nghe được "âm thanh nội tại" và nhìn thấy được "ánh sáng nội tại" mà từ đó, bà ấy lại giảng về "ấn tâm" và "quán âm pháp môn". Quán âm pháp môn chính là pháp môn nhĩ căn viên thông của Quan Âm Bồ Tát được nói đến trong quyển 6 thuộc "Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm kinh".
Thanh Hải Vô Thượng Sư dùng năm câu chú của đạo Sikh, dùng ấn tâm, dùng quán âm pháp môn, cùng dung nhập vào với nhau, nhờ việc khởi đầu bằng nghe âm thanh, nhìn ánh sáng mà sẽ khiến cho con người có được linh giác trước, đây là điểm xuất phát để kêu gọi và điều khiển tất cả tín chúng.
Nói chung, nghe âm thanh nhìn ánh sáng, nếu có cao linh gia trì, sẽ sản sinh ra cảm ứng thần thông, có được cảm ứng thần thông rồi thì dòng người sẽ lũ lượt tò mò, ào ào xô tới. Cộng thêm với cách diễn thuyết hiện đại của Thanh Hải Vô Thượng Sư sẽ khiến cho không ít người đi theo. Sự phối hợp trong ngoài này đã khiến cho người Đài Loan rất ưa chuộng. Và thế là, dòng tu của bà xuất phát từ Đài Loan rồi lan đi khắp thế giới.
Mặc dù pháp môn quán âm là bắt đầu bằng tính chất nghe của tai để khởi tu, ban đầu có nghe âm thanh, nhưng cần ngược dòng âm thanh, hồi âm phản chiếu chính mình, cho đến cuối cùng không những không biết có âm thanh, ngay cả việc nghe cũng trở nên tĩnh lặng, hai trạng thái động và tĩnh đều cùng tiêu biến. Cần làm cho những cái gốc bụi trần đều mất đi thì sự viên giác mới hiện tiền.
Đây là công phu khi âm thanh đi vào tai thì sẽ xoay ngược việc Nghe để nghe tự tính, khi lục căn hoàn toàn bị diệt mất thì tự tính xuất hiện, đây gọi là viên chiếu tam muội.
Hơn nữa, không phải là chỉ dừng lại ở trong huyễn cảnh của việc nghe âm thanh và nhìn ánh sáng. Ngoài ra nghe âm thanh nhìn ánh sáng cũng rất dễ nhập vào ma cảnh.
Tuy nhiên, bốn chữ "tức khắc khai ngộ" của Thanh Hải Vô Thượng Sư thực sự là cực kì gây rúng động đến nội tâm của nhiều người.
Đối với nhân vật kiểu này, đương nhiên tôi cần chú ý quan sát, kì thực bà ấy cũng chú ý tới tôi y như thế. Có người hỏi Thanh Hải Vô Thượng Sư: "Bà có biết Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn không?" Bà đáp: "Tôi biết có ông ta, ông ta biết có tôi." Ha ha, trả lời rất khéo.
Tôi dùng thiên nhãn để quan sát bà, vị tỳ kheo ni người Việt Nam này không giống như bình thường. Bà ấy để tóc dài, kẻ lông mày, kẻ mí mắt, đánh phấn, bôi son, mặc những bộ đồ Tây thời thượng nhất, đeo vàng đeo ngọc, thậm chí đôi khi trên đầu còn cài hoa, đeo kính râm. Các đệ tử của bà ca ngợi bà là: Vị sư phụ khí chất cao quý. Uy nghi vương giả. Có dung nhan hiền hậu như Đại Địa Thánh Mẫu. Là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát.
Tôi chú ý đến vị cao linh ở sau lưng bà - đó là Đại Phạm Thiên Vương, thực sự trăm phần trăm là Đại Phạm Thiên Vương không sai trật. Vì sao lại là Đại Phạm Thiên Vương ở sau lưng bà điều khiển mọi thứ?
Đại Phạm Thiên Vương có thân tâm vi diệu viên mãn, uy nghi không khiếm khuyết, thanh tịnh giữ giới, hỗ trợ cho sự minh ngộ, là người thống lĩnh Phạm chúng với vai trò như một Đại Phạm Vương, do vậy gọi là Đại Phạm Thiên.
Đại Phạm Thiên Vương có bốn đặc tính lớn:
- Thanh tịnh giữ giới - bảo người ta nhất định phải ăn chay.
- Hỗ trợ cho sự minh ngộ - bảo người ta tức khắc khai ngộ.
- Thống lĩnh Phạm chúng - thống lĩnh mọi người.
- Là Đại Phạm Vương - là một vị vua tự lập.
Bốn đặc tính trên đều hiện rõ không thừa chút nào ở trên người Thanh Hải Vô Thượng Sư. Cao linh ở sau lưng của bà ngoài Đại Phạm Thiên Vương ra thì còn có thể là ai nữa?
Không chỉ như vậy, trong các bài khai thị thuyết pháp của Thanh Hải Vô Thượng Sư toàn là giọng điệu của Đại Phạm Thiên Vương, căn bản cũng chính là cảnh giới bản địa của Đại Phạm Thiên Vương!
Ví dụ: "Chúng ta làm sao để biết rằng mình đã khai ngộ rồi? Việc này không khó, khai ngộ chính là có ánh sáng, ta ở bên trong có thể nhìn thấy được ánh sáng, bản tính của chúng ta chính là ánh sáng." Đây chính là giọng điệu của Đại Phạm Thiên Vương ở Sắc Giới Thiên.
"Giáo lý và Cơ Đốc, Hồi Giáo đều tương hợp, bởi vì cũng là dạy người ta làm điều thiện." - Khẩu khí của Đại Phạm Thiên Vương.
Tôi đặc biệt ghi chú rõ: Chúa Jehovah, Jesus, Ngọc Hoàng Đại Đế, Thánh Allah… đều là hóa thân của Đại Phạm Thiên Vương.
Có người hỏi: "Thành tâm cầu nguyện Thanh Hải Vô Thượng Sư sẽ có được giải thoát, cầu nguyện chúa Jesus của đạo Cơ Đốc có được cuộc đời vĩnh hằng, và cầu nguyện Phật Thích Ca Mâu Ni thì sẽ có được giải thoát, giữa ba vị này có gì khác biệt?" Thanh Hải đáp: "Chúa Jesus của đạo Cơ Đốc và Phật Thích Ca Mâu Ni thì đều đã vãng sinh rồi, còn ta vẫn còn tại thế." Điều này cũng chính là điều Đại Phạm Thiên Vương thường nói. Hỏi: "Hiện nay có bao nhiêu vị minh sư?" Thanh Hải đáp: "Có một vị minh sư đối với mọi người đã là đủ dùng rồi!" - Câu này lại càng là khẩu khí của Đại Phạm Thiên Vương.
Những ví dụ kiểu này cực kì nhiều, không thể kể hết. Xem xét trên quan điểm logic thì căn bản chính là do Đại Phạm Thiên Vương đang trực tiếp đưa ra chỉ thị.
Có người hỏi tôi: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, ngài có bình luận gì đối với việc Thanh Hải Vô Thượng Sư lúc đầu xuất gia thì cạo tóc, sau đó lại để tóc và mặc trang phục thường, còn tô son điểm phấn?" Tôi đáp: "Giới Phật giáo chắc chắn sẽ phê bình việc xuất gia cạo đầu rồi lại để tóc mặc trang phục thường, đánh phấn tô son. Nhưng, quan điểm của tôi và con người thế tục không giống nhau, tôi cho rằng việc cạo đầu xuất gia và việc để tóc mặc trang phục thế tục, hay đánh phấn tô son đều là hình tướng bên ngoài mà thôi. Ý tôi muốn nói rằng, một người có nội tâm khai ngộ chân chính thì tất cả những hình tướng bên ngoại đều có thể bất chấp, cũng không có gì là quá quan trọng nữa. Đối với điểm này, tôi cũng không mất công đi phê bình bà ấy. Điều tôi phê bình là cảnh giới của bà, những thứ khác không quan trọng."
🌟
Những người khác
Vốn dĩ tôi còn muốn viết về Thánh Nghiêm pháp sư, Diệu Liên hòa thượng, viết một chút về Tâm Đạo pháp sư, Huệ Luật pháp sư, cũng như Duy Giác lão hòa thượng, hoặc lại nói thêm về Tuyên Hóa thượng nhân, v.v… nữa. Tuy nhiên, tôi biết rằng một khi viết ra thì e rằng một cuốn sách này cũng chẳng đủ, do vậy trong cuốn sách này, tôi chỉ viết về Lâm Vân, Tinh Vân, Chứng Nghiêm, Thanh Hải, còn những vị khác thì đợi đến cơ duyên viết sách những lần sau.
Có lẽ có người sẽ hỏi, thiên nhãn của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn liệu có thể nhìn sai không? Liệu có thể nào là huyễn giác không? Liệu có thể là thần thức của chính mình đã tự bịa ra không?
Người bình thường đương nhiên có thể sẽ có những suy nghĩ nghi hoặc này, đặc biệt là trong xã hội hiện tại này, thuật sĩ giang hồ rất nhiều, mặc dù cũng có những kì nhân dị sĩ nhưng những kẻ du côn kiếm miếng ăn thì lại càng nhiều hơn. Bọn họ đều nói có thể nhìn thấy nhân quả ba kiếp, có thể gặp thần gặp ma, có thể….
Tuy nhiên, mắt cá và trân châu cho dù có thể trộn lẫn vào với nhau, nhưng cũng vẫn có thể phân biệt được. Rốt cục, Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn xuất đạo tu hành đã được 27 năm, đã viết 120 cuốn sách, bản thân ngày ngày thực tu, thiên nhãn của bản thân có thể tin được hay không, tự tâm này biết rõ. Việc này cũng chẳng phải là có thể tùy tiện nói bừa là xong, cần phải hợp với cách suy nghĩ và logic của con người hiện đại.
Thiên nhãn liệu có phải là huyễn? Câu trả lời của tôi là: "Đương nhiên có."
Thậm thâm Bát Nhã, biện chiếu tam giới, căn bản tính nguyên, cuối cùng tịch diệt, cùng với hư không, chẳng còn gì nữa. Giống như Lâm Vân đại sư, giống như Tinh Vân đại sư, giống như Chứng Nghiêm thượng nhân, giống như Thanh Hải Vô Thượng Sư, giống như Tuyên Hóa thượng nhân, v.v… Tôi dùng thiên nhãn để quan sát, đều là một sự huyễn nhất thời mà thôi!
Phúc báo của những đại sư thượng nhân này lớn! Chính là: Phúc điền năng trồng quanh năm thịnh, Phúc hải rộng sâu đời đời vững, Phúc mãn càn khôn nhiều âm phúc Phúc tăng vô lượng mãi chu toàn.
Theo như Sơn Vương Tinh Vân mà nói thì đại địa này núi là cao nhất, thế nhân cũng biết rằng có bao nhiêu là núi, những ngọn núi cao sừng sững uy nghi đầy khí thế, gốc nối với mạch Tu Di, đỉnh chạm tới thiên ngoại thiên, trùng trùng điệp điệp nghìn dải sương mù bao phủ, hàng vạn đám mây ngũ sắc bay bay. Tuy nhiên, cho dù là có một vị Sơn Thần to lớn là Thái Âm Sơn Phủ Quân thì tôi vẫn phải khuyên ông ta rằng: tu trì cho đúng cần cẩn thận, quét sạch ái dục tự quy chân.
07. Thần biến của pháp Bổn tôn
Linh giới
Bởi những gì mà thiên nhãn của tôi nhìn thấy được, tôi trực nhận ra rằng trong vũ trụ này, thế giới hữu hình dường như bị cả thế giới vô hình kiểm soát. Cái thế giới hữu hình này dường như bị thế giới vô hình điều khiển, việc này giống như các cao linh của linh giới đang chơi cờ vậy. Nhân loại chúng ta chỉ là một quân cờ.
Bàn cờ là đất quân là trời, Người chơi điều khiển cả âm dương Vận chuyển đổi thay đầy kì lạ Hóa ra sau lưng có Thần Tiên.
Cao linh ở sau lưng này mới là người chơi cờ thật sự, mới là người chiến thắng thật sự. Tôi còn xác nhận được rằng các linh ở sau lưng bao gồm từ rất quảng đại, có giới Phật, giới Bồ Tát, giới Thanh Văn, giới Duyên Giác (đây là Tứ Thánh giới), có giới Thiên, giới Người, giới Atula, giới Địa Ngục, giới Ma, linh giới Động vật (đây là Lục phàm giới), gộp lại là Thập pháp giới.
Tôi nhận ra "linh" ở sau lưng một số hành giả có địa vị rất cao, sức mạnh rất lớn, nhưng một số thì cũng không phải là cao lắm. Tôi còn phát hiện ra, con người phổ thông bình thường thì linh ở sau lưng họ có địa vị không cao, sức mạnh cũng thấp, có người thì bị linh của động vật sở hữu, thậm chí có người thì bị yêu tinh quỷ quái sở hữu, có người thì trở thành kê đồng, có người thì trở nên tâm thần bệnh hoạn.
Theo quan điểm của tôi, nếu như muốn biết cảnh giới của một hành giả đã cao đến mức nào, công lực tu hành của hành giả đó ra sao, thì chỉ cần nhìn linh ở sau lưng của người đó là có thể biết được rất rõ ràng. Bởi vì linh ở sau lưng chính là Bổn tôn mà hành giả đã tu xuất ra được.
Hôm nay, tôi có kiến giải như thế này là bắt buộc phải nhờ có sự quan sát vi diệu. Nhưng điều quan trọng nhất là nay tôi là hóa thân của A Di Đà Phật, lại có công lực gia trì của Ngũ Phật Tứ Bồ Tát ở cung điện trung tâm của Thai Tạng Giới, thậm chí có thầy dạy là Diêu Trì Kim Mẫu, nhờ vậy tôi mới có thể hiểu được thông suốt.
🌟
Tầm quan trọng của pháp Bổn tôn
Đời này của tôi ở nhân gian, tôi dạy thế nhân tu Chân Phật Mật Pháp, trong đó có pháp Bổn tôn thực sự là vô cùng quan trọng. Tôi từng thành tựu pháp này trong một sát-na. Tôi đã thành A Di Đà Phật. Bên phải có Quan Thế Âm Bồ Tát. Bên trái có Đại Thế Chí Bồ Tát. Toàn thân tôi phóng tỏa đại quang minh. Xung quanh bên trái bên phải của tôi đều là Hộ pháp, Không hành, chư Thiên vòng vòng vây quanh, cực kì trang nghiêm thù thắng. Thành tựu vi diệu thù thắng này chính là sự thần biến của pháp Bổn tôn.
Pháp Bổn tôn có nghĩa là, trong số chư Phật, Bồ Tát và Kim Cang, hành giả Mật tông tự mình chọn ra một vị mà mình có duyên nhất để làm đối tượng tu pháp của mình. Sau đó sẽ tu pháp của Bổn tôn này, tu cho đến khi chính mình biến thành Bổn tôn.
Ví dụ, tôi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn chính là hóa thân của A Di Đà Phật, vậy thì tôi vẫn lấy A Di Đà Phật làm Bổn tôn, sau cùng tôi lại tu thành A Di Đà Phật, trở về với nguồn gốc ban đầu, nguồn gốc này chính là bản địa.
Kinh Đại Nhật viết: "Một thân hay hai thân, thậm chí là vô lượng thân, cùng nhập vào bản thế." Đây chính là nguyên lý của pháp Bổn tôn.
"Mật giáo thông quan" có nói: "Tam mật của chư Phật và tam mật của hành giả cùng ở khắp pháp giới, bình đẳng và bình đẳng. Bởi chân ngôn do chư Phật ấn khắc, cùng với chư Phật mà hành giả ấn khắc, cũng bình đẳng không khác. Nhờ có ấn mà rõ ràng đều bình đẳng, do vậy có thể hấp dẫn chư Phật nhập vào thân này của ta. Bởi chư Phật nhập vào thân ta, do vậy công đức của Phật cũng là công đức mà ta có." Đây chính là nguyên lý biến thân của Nhập ngã - Ngã nhập trong Mật giáo.
Quán tưởng Nhập ngã - Ngã nhập của pháp Bổn tôn cực kì quan trọng:
- Quán tưởng Bổn tôn xuất hiện ở hư không trước mặt, ba ánh sáng chiếu đến bao chùm lấy hành giả, khiến hành giả an trụ bất định.
- Quán tưởng Bổn tôn dịch chuyển đến đỉnh đầu, phóng đại quang minh, trong ánh sáng tuôn chảy ra cam lộ quán đảnh cho hành giả, nghiệp chướng của hành giả đều được thanh tịnh, đạt được đại tự tại.
- Quán tưởng Bổn tôn thu nhỏ lại như một hạt ngọc, từ lỗ trên đỉnh đầu hành giả đi vào trung mạch, rồi ngự tại hoa sen trong tâm hành giả.
- Quán tưởng Bổn tôn toàn thân phóng to lên, trở thành to bằng chính bản thân hành giả. Trong một sát-na, hành giả và Bổn tôn hợp làm một. Ta chính là Bổn tôn, Bổn tôn chính là ta. (Mỗi một quán tưởng thì trì chú Bổn tôn 108 biến.)
Đây chính là những điểm chính của sự thần biến trong pháp Bổn tôn.
Tôi xác nhận được điều này, rằng chỉ cần tu trì thành tựu được pháp Bổn tôn thì chắc chắn không có nghi ngờ gì là người tu hành sẽ vãng sinh đến Phật quốc. Trong Hiển giáo mà nói thì pháp môn niệm Phật là tiện lợi nhất, nhưng pháp quán tưởng trì chú Bổn tôn của Mật giáo thì thâm nhập sâu hơn.
Tôi nhận ra rằng có một số đại sư, pháp sư chắc chắn chưa từng học qua pháp Bổn tôn một chút nào, nhưng vì sao sau lưng của họ có cao linh đi theo, tôi cho rằng đó là nhân duyên của họ, nói cách khác là những cao linh này đến là vì duyên phận.
Tôi lấy một ví dụ để nói: Bản thân Tuyên Hóa thượng nhân đọc thuộc kinh Lăng Nghiêm, còn dạy người ta đọc thuộc kinh Lăng Nghiêm, kết quả là hấp dẫn Lăng Nghiêm Vương Bồ Tát. Cái lý của việc này chính là như vậy.
🌟
Ngoại mật và Nội mật
Tôi cho rằng pháp Bổn tôn nên là toàn bộ của Mật giáo. Tu pháp Mật giáo phân thành Ngoại mật và Nội mật. Ngoại mật chính là như tôi đã nói ở đoạn trước:
- Phật ở hư không.
- Phật trụ đỉnh đầu ta.
- Phật đi vào tim ta.
- Phật và ta hợp nhất.
Còn Nội mật thì là tu khí - mạch - điểm.
- Khí thổi bùng lên chuyết hỏa.
- Chuyết hỏa đốt cháy điểm.
- Điểm hóa thành thần thức.
- Thần thức biến thành Bổn tôn.
Tôi viết ra những điểm chính của Ngoại mật và Nội mật. Cuối cùng của Ngoại mật là Bổn tôn và ta hợp nhất, cuối cùng của Nội mật là gửi minh điểm thần thức đến cõi tịnh độ của Bổn tôn, hoặc trực tiếp biến hóa thành Bổn tôn. Do vậy, bất kể là Ngoại mật hay Nội mật thì vẫn đều là pháp Bổn tôn.
Mật giáo có nghìn nghìn vạn vạn pháp tu, nói cách khác là thập phương Phật, thập phương Bồ Tát, thập phương Kim Cang, thập phương chư Thiên, thập phương Hộ pháp Không hành, toàn bộ đều ở trên mandala của Mật giáo. Tuy nhiên, từ đầu chí cuối, tôi đều luôn nhận thấy là bất kể bạn tu Mật pháp gì thì cũng không nằm ngoài Ngoại mật và Nội mật, đều cần phải có Bổn tôn gia trì, Thượng sư gia trì, Hộ pháp gia trì.
Tôi có một hiện tượng cảm ứng đặc thù. Một người tu hành có được thành tựu thì ngoài việc mọi lúc mọi nơi đều hợp nhất với Bổn tôn ra thì còn có tất cả quyến thuộc của Bổn tôn đó sẽ đi theo, còn có cả Hộ pháp của Bổn tôn cũng cùng đến. Có nghĩa là, tất cả mọi thứ của Bổn tôn đều sẽ có liên quan lẫn nhau đến hành giả Mật giáo.
Ví dụ: Bổn tôn của tôi là A Di Đà Phật. Thân tự tính của tôi chính là A Di Đà Phật. Thân chính pháp của tôi chính là Văn Thù Bồ Tát. Thân giáo lệnh của tôi chính là Đại Uy Đức Kim Cang.
Hồi đầu tôi cho rằng Hộ pháp của tôi là Bất Động Minh Vương, kết quả là Đại Uy Đức Kim Cang không mời mà tự đến.
Đó là có một lần, tôi luyện pháp Kim Cang quyền, tôi để cho thân tâm mình hoàn toàn thả lỏng, đột nhiên trong một sát-na, trong hư không treo lơ lửng một vị Đại Thần Vương, đó là Yamantaka, vị có sáu chân. Tôi đột nhiên dậm mạnh 16 bước, tay kết ấn Đại Uy Đức Kim Cang, miệng tụng chú Đại Uy Đức Kim Cang, hai tay hóa thành 34 cánh tay.
Tôi chìm sâu vào trong biển lớn. Xuất hiện ánh sáng uy đức khổng lồ, những con rồng hiểm độc trong biển lớn vừa nhìn thấy thì tất cả bèn tháo chạy. Tôi dời sông lật biển, vận khởi những thần thông mạnh nhất. Lúc đó, sức mạnh của tôi khiến cho Long Vương cũng phải run lên sợ hãi, rồng con rồng cháu hồn bay phách lạc, rùa biển ba ba cá sấu đều phải rụt đầu, cá tôm cua đều rúc đầu trốn biệt…. Đại Uy Đức Kim Cang quả nhiên có đại công lực.
Chính vào lúc đó tôi và Đại Uy Đức Kim Cang đã lập lời thề, kết thành giới nguyện samaya, Đại Uy Đức Kim Cang trở thành Hộ pháp lớn nhất của tôi. Đại Uy Đức Kim Cang có thể không cần thỉnh mà đến, vẫn là nhờ nguyên nhân là Bổn tôn của tôi là A Di Đà Phật. Tất cả những điều này đều là nhân duyên!
🌟
Cúng dường Bổn tôn và Hộ pháp
Nhờ vào tu pháp Bổn tôn mà sau khi tự ta hiện Bổn tôn, tất cả hành vi của ta đều là hành vi của Bổn tôn, tất cả thức ăn, quần áo, chỗ ở, đi lại, sự dạy dỗ, niềm vui, đều cúng dường Bổn tôn. Thức ăn để nuôi dưỡng. Quần áo để trang nghiêm. Chỗ ở để thiền định. Đi lại để thần túc. Dạy dỗ để trí tuệ. Niềm vui để tinh tấn. Tất cả mọi thứ của tôi cũng tức là mọi thứ của Bổn tôn.
Tôi lại phát hiện ra một sự việc rất kì diệu. Mỗi lần tôi cúng dường Hộ pháp, tôi chắc chắn có thể cảm ứng được ngài đến để nhận cúng dường. Tuy nhiên, nếu ngài không đến thọ cúng thì cần phải chú ý, bởi vì nếu Hộ pháp không ở cạnh hoặc rời xa hành giả mà đi thì điều này ám chỉ rằng có sự việc không tốt sắp xảy ra.
Theo như tôi biết, theo giới nguyện samaya của Mật giáo, nếu như Hộ pháp rời bỏ hành giả thì kiếp họa của hành giả sẽ đến, nói không chừng là sắp đến ngày "niết bàn" rồi.
Tôi cũng muốn nói với mọi người rằng, hành giả tu pháp Bổn tôn có được thành tựu thì chắc chắn có thể vãng sinh Phật quốc. Tôi có thể đảm bảo với mọi người rằng, thành tựu pháp này thì đã có cảm ứng thần thông rồi, tự mình có thể vãng sinh được hay không thì tự mình sẽ biết.
Tôi (A Di Đà Phật) bảo đảm với bạn. Ngũ Phật Tứ Bồ Tát bảo đảm với bạn. Thập phương Phật Bồ Tát bảo đảm với bạn.
08. Thế lực ác của linh giới
Linh giới đại chiến
Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói rằng trong linh giới cũng có chiến tranh, ví dụ: Chiến tranh giữa Đế Thích Thiên Chủ và Atula Vương. Chiến tranh giữa Đại bàng Kim Sí Điểu và tộc Rồng. V.v…
Lần đầu tiên tôi viết bài phê bình Tinh Vân đại sư, không ngờ Dạ Xoa, Dược Xoa, Sơn Tinh, Sơn Mị trong núi đều biết. Bọn họ nổi gió xoáy tìm đến để "tính sổ" với tôi - một Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn bé nhỏ mà dám hỗn xược chỉ trích Sơn Vương Tinh Vân đại sư tôn quý của chúng ta.
Lúc này: Mịt mùng mây đen giăng cuồn cuộn Bừng bừng hắc khí lấp mặt trời Nhổ sạch cây cao tung bật gốc San phẳng mai rừng cành xum xuê Cát vàng bụi mù người khó chạy Sỏi đá ngổn ngang mọi nẻo đường Mặt đất âm u sôi sùng sục Chim thú kêu vang khắp núi rừng.
Tôi cảm ứng thấy một vị không tiện nói tên ở đây đã tới, đó là Hộ pháp của Sơn Vương Tinh Vân. Nếu như Tinh Vân không có Hộ pháp thì sự nghiệp của ông ta cũng không thể nào nổi lên như gió như vậy được.
Khi đó tôi đang ngồi tĩnh lặng, ngược lại tôi còn muốn xem xem thân thể xương thịt phàm phu này của tôi làm sao tự chủ được trong tình huống này. Không ngờ, thân thể xương thịt này của tôi vừa gặp tà ma thì lỗ trên đỉnh đầu tự mở ra, rồi từ bên trong tỏa bùng ra hà quang nhuệ khí [ ND: ánh sáng nhiều màu sắc và khí thuận lợi cát tường ], bao phủ nghìn trượng. Sương mây rực rỡ cát tường che khắp vạn đạo, từ trong màn sương mây hiện lên Ngũ Phật Tứ Bồ Tát của Thai Tạng Giới. Bên cạnh Ngũ Phật Tứ Bồ Tát có Tứ Đại Kim Cang, ba nghìn Yết Đế, mười hai Đại Diệu, mười tám Già Lam.
Các Dạ Xoa, Dược Xoa, Sơn Tinh, Sơn Mị vừa trông thấy thì đều buông hết vũ khí, hoảng hốt tháo chạy. Một lần gặp chuyện này rồi thì không còn dám lại bén mảng đến nữa.
Tôi cảm ứng thấy cảnh giới tu hành càng cao thì ma chướng càng cao, đúng như câu nói "đạo cao một xích, ma cao một trượng". Hình ảnh thái cực trong Đạo gia được vẽ rất hay, một nửa trắng, một nửa đen, bạch đạo và hắc đạo vĩnh viễn đi cùng nhau. Thế lực đại ác của linh giới thực sự cũng khá đáng sợ, có bài thơ dưới đây chứng minh:
Đạo đức cao rộng ma chướng cao Thiền cơ vốn tĩnh sinh ma quái Tâm ta chính trực theo trung đạo Ngoại giáo ta vạch đường phân chia Thân ý không còn màng ái dục Chưa đạt tính Không tự ưu phiền. Vui gì khi chỉ có tâm tà Chính đạo cuối cùng sẽ diệt tiêu.
Linh giới này quả nhiên thường xuyên có chiến tranh, một thế lực thì kéo lên trên, một thế lực khác thì đẩy xuống dưới, đi lên thì khó mà đi xuống thì tương đối dễ. Mà sức mạnh kéo xuống thì gia tăng tốc độ, cực kì đáng sợ.
Tôi thấy: Bổn tôn và Bổn tôn đấu với nhau. Hộ pháp và Hộ pháp giết lẫn nhau. Linh động vật và linh động vật ăn thịt nhau.
Thế giới này, yêu ma quỷ quái rất nhiều, tinh linh của lang trùng hổ báo lại càng nhiều hơn. Trên biểu hiện bên ngoài thì có vẻ đều là thiền quang hiền hòa may mắn, nhưng ngờ đâu bên trong lại là khí ác khói dơ.
Tôi từng đến một ngôi chùa rất trang nghiêm, với những lan can đỏ thắm và cánh cửa chạm ngọc, với những cột trụ và xà nhà được chạm khắc vẽ tranh, tiếng tụng kinh và mùi hương đầy ắp không gian, là đạo tràng nhiều tăng nhân.
Tôi đi thẳng vào bên trong thì nhìn thấy Như Lai ngồi ở chính giữa của Đại Hùng Bảo Điện, tôi nhìn thấy nhưng công khai không lạy. Như Lai ngồi trên tòa sen gọi tôi: "Lư Thắng Ngạn kia, thấy Như Lai sao không lạy?" Tôi hét to: "Lũ yêu vương tiểu quái nhà ngươi quá to gan, dám giả danh Phật thế này, lừa gạt hương hỏa cúng phẩm của người, làm bại hoại đạo đức thanh sạch của Như Lai! Chớ có chạy!" Tôi dùng Kim Cang Chỉ phóng ánh sáng, làm lóe lên những tia sáng chói lọi.
Thì ra là yêu vương giả trang làm Phật Tổ ngồi trên tòa sen, còn mười tám vị La Hán đều là các tiểu yêu, những hòa thượng mắt thường làm sao nhìn ra được. Tôi đến chơi một chuyến đã đuổi sạch bọn yêu vương và tiểu yêu, làm thanh tịnh và khai quang lại từ đầu.
🌟
Bổn tôn của kê đồng
Kê đồng chính là những đồng cốt, trong nước ngoài nước đều có. Ở những nước phương Tây thì họ trực tiếp được gọi là thầy bói, còn ở Đông Nam Á thì được gọi là đồng cốt hoặc lên đồng. Ở Đài Loan thì gọi là kê đồng hoặc đồng kê, ở Tây Tạng thì gọi là "giáng trí chân ngôn". Tóm lại, kê đồng chính là những đối tượng bị các linh hồn mượn thân thể để nói chuyện, mang thân phận là người phát ngôn của linh hồn. Vậy vì sao lại dùng chữ "đồng"? [ ND: chữ "đồng" trong từ nhi đồng, là trẻ em ]
Những kê đồng trong quá khứ mượn thân của đồng nam đồng nữ để giáng xuống nói chuyện, một mặt để biểu thị sự thanh tịnh, mặt khác là đồng nam đồng nữ sẽ nói những lời tương đối thật thà.
Hiện tượng kê đồng giáng linh được phân ra làm "văn kê" hoặc "võ kê", văn kê thì sẽ dùng lời văn, còn võ kê thì sẽ dùng võ, trạng thái đều là rung lắc run rẩy. Giọng điệu khi nói chuyện thì có người dùng lời nói thông thường, có người dùng thơ ca, có người thì thậm chí còn hát, có vô số kiểu.
Đương nhiên kê đồng cũng có thật có giả, bởi vì thế giới này có thật thì tất sẽ có giả, bởi vì việc rung lắc hay thay đổi âm điệu tiếng nói thì đều có thể học cách bắt chước được, khéo léo y như thật, do vậy việc giả kê đồng giả đồng cốt tương đối nhiều.
Muốn phân biệt kê đồng giả hay kê đồng thật, theo tôi thấy biết thì nếu là kê đồng thật thì nhiệt độ cơ thể họ sẽ hạ xuống, thân thể sẽ trở nên lạnh, khi ấy dùng cặp nhiệt độ để đo thì sẽ biết được.
Những người làm nghề kê đồng, tôi phát hiện ra họ cũng có Bổn tôn cố định, nói cách khác là có một vị thường xuyên đến. Do vậy, khi có các lễ hội chùa chiền, mọi người hay chỉ chỉ trỏ trỏ: Người kia là kê đồng Thái Tử Nguyên Soái. Người kia là kê đồng Huyền Thiên Thượng Đế. Còn có người nữa là kê đồng Trì Phủ Thiên Tuế. Còn có cả nữ kê đồng Quan Thế Âm Bồ Tát nhảy múa. Rồi kê đồng bà Ma Tổ [ Mazu ], bà Ma Tổ còn được phân ra có Mẹ Cả, Mẹ Hai, Mẹ Ba…… Bây giờ còn có cả Phật Tổ nhảy múa, kê đồng Phật Thích Ca Mâu Ni, kê đồng Nhiên Đăng Cổ Phật, kê đồng Tế Công Hoạt Phật. Đại bộ phận những việc mà các kê đồng đồng cốt làm không có gì ngoài việc giúp người ta làm tiêu tai giải ách, trị bệnh cầu phúc, v.v…
Tất nhiên cũng có những kê đồng kêu người ta cần tu hành, cần làm việc thiện, nhưng rốt cục thì những người này cũng chỉ là thiểu số, đại bộ phận kê đồng đều là xử lý những việc thế tục.
Đối với hiện tượng kê đồng giáng linh, giới Phật giáo nói chung xem đó là một trong những hiện tượng linh hồn, họ lựa chọn giữ thái độ kính trọng từ xa.
Duy có ở Tây Tạng, khi đi tìm kiếm những vị Phật sống, hoặc khi cần thỉnh thị pháp ngữ thì họ mới thỉnh người giáng linh có tuổi cao đức trọng để chỉ bảo, hoặc nhập vào đồng nam đồng nữ để nói lời chỉ bảo, rồi từ những lời đó mà rút ra một vài gợi ý. (Trong Mật tông đạo thứ tự quảng luận có ghi chép lại việc này, gọi là "giáng trí chân ngôn". )
Tôi đã quan sát rất nhiều kê đồng, ý kiến của tôi như sau:
- Kê đồng thật thực sự sẽ có linh hồn đến nhập vào.
- Kê đồng cũng có hiện tượng có linh của Bổn tôn.
- Hỏi việc có linh nghiệm hay không thì cần xem năng lực của linh hồn đó.
- Những linh hồn chỉ mượn thân người bình thường thì thân phận của những linh hồn đó không phải là cao lắm, có khi chỉ là linh của động vật, linh của địa ngục, linh của quỷ quái mà thôi. Nhưng cũng có ngoại lệ, một số ít những cao linh như Thần, Tiên, Thánh, Bồ Tát, lâu lâu cũng sẽ hạ giáng một lần.
- Những linh hồn thông thường sẽ giả danh cao linh đến để chiếm được sự tôn trọng của con người, do vậy thường sẽ nói mình là Bồ Tát gì gì đó, hoặc Phật gì gì đó hạ giáng, kì thực thân phận thật sự của họ chỉ là hồn ma bình thường.
- Mỗi kê đông ít nhiều đều có một lớp người tin theo, bởi vì ít nhiều cũng sẽ có những sự việc linh nghiệm nho nhỏ.
- Hiện tượng kê đồng và tự kỉ ám thị hay hiện tượng thôi miên có liên quan với nhau.
- Thể chất của kê đồng cần có sự tương đồng với thể chất của linh hồn mới có thể nhập vào nhau.
- Những người có tinh khí tương tự hoặc có sự mẫn cảm lớn, và người có tinh thần (chất thần kinh) thì tương đối dễ trở thành kê đồng, tục gọi là người có bát tự thấp.
- Kê đồng có liên quan đến giờ, ngày, tháng, năm sinh.
- Kê đồng có liên quan với tổ tiên.
- Kể đồng có liên quan đến phong thủy.
- Saman giáo có liên quan đến kê đồng. Một số thầy phù thủy nuôi quỷ hoặc phục vụ quỷ (Nhật Bản gọi là thức quỷ) đều có liên quan tới kê đồng.
- Các thầy phù thủy ở Châu Phi, thầy phù thủy người Indian, thầy phù thủy Malaya, thầy phù thủy ở vùng núi cao, đều có liên quan đến kê đồng.
- Luận thuyết vạn vật có linh có liên quan đến kê đồng.
Tôi cảm thấy kê đồng luôn ở trong mớ dây dưa với những linh cấp thấp cuồng loạn, thực tế cũng không phải là cách hay. Nếu như kê đồng muốn tự thân sản sinh ra sức mạnh, hơn nữa còn có linh cao cấp hạ giáng để chỉ đạo và gia trì thì nhất định cần quy y Chân Phật Tông. Trước tiên cần tiếp nhận sự gia trì và quán đảnh của Căn bản Thượng sư.
Nhờ vào pháp Đại lễ bái và pháp Tứ quy y, hoặc pháp Kim Cang Tâm Bồ Tát để có thể thanh tịnh tam nghiệp thân, khẩu, ý của kê đồng, cũng tức là thanh trừ nghiệp chướng của khí, mạch, minh điểm, sản sinh ra năng lượng tích cực. Nhờ tu pháp Đại cúng dường mà có được phúc báo và tư lương. Pháp Tứ gia hành này là nền tảng của Mật giáo, tu tốt Tứ gia hành là vô cùng quan trọng, bởi vì điều này cũng giống như người nông dân trước khi trồng ruộng cần phải: Loại bỏ sỏi đá. Dọn cỏ. Làm đất. Bón phân.
Khi tâm của kê đồng đã được làm sạch rồi thì tự khắc sẽ hấp dẫn Bổn tôn ở tầng lớp cao đến, hơn nữa, công lực của kê đồng cũng dần dần gia tăng. Điều này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho kê đồng trong việc xử lý các việc lặt vặt ở nhân gian. Giả dụ kê đồng lại còn có thể khởi lên sự xuất ly tâm, rời xa được sự bám chấp, thì đây chính là từ "thứ tự sinh khởi" mà tiến vào "thứ tự viên mãn", giảm bớt những ô nhiễm của nghiệp chướng, cứ như thế tu khí cho tốt, đả thông mọi mạch, rồi làm cho minh điểm phóng quang, cuối cùng cũng có thể thành tựu thân Bổn tôn, thì kê đồng cũng có thể tức thân thành Phật.
🌟
Đặc trưng của ác linh
Những linh đến từ địa ngục, bởi vì chúng đã thường xuyên chịu sự thiêu đốt dữ dội của lửa, phải chịu nỗi khổ cực nóng, hoặc ở những nơi không có mặt trăng mặt trời chiếu sáng, phải chịu nỗi khổ cực lạnh. Hành giả mà bị linh địa ngục đeo bám thì sẽ phải chịu khổ báo cực kì cực kì khổ.
Những linh đến từ ma, nếu hành giả gặp phải linh ma đeo bám thì những con ma này đều có tâm tham lam, nịnh nọt, đố kị, từ đó sinh ra tà kiến, lừa lọc. Người bị linh ma nhập vào sẽ mắc các chứng bệnh ma mị, hoặc đi theo hướng tà ác, trong tâm cũng sẽ sinh ra sự tham lam, xấu xa, đố kị, nịnh nọt, lừa lọc.
Những linh đến từ động vật, đặc trưng của linh động vật là tà dâm, mọi lúc mọi nơi đều thích giao hợp. Hơn nữa còn có tính sân hận, cũng giống như những động vật có tính hung ác như là rắn, sói, hổ, báo. Các linh động vật thông thường nếu không tà dâm thì cũng là sân hận.
Hành giả nếu như bị linh động vật đeo bám sẽ dễ sinh ra tâm dâm dục và ghen tuông làm hại người khác.
Tôi phân tích đơn giản những đặc trưng của ba loại linh này như sau: Linh địa ngục - chịu nhiều khổ cực. Linh ma - tham lam xấu xa. Linh động vật - tham dâm sân hận.
Không chỉ tam ác đạo có ác linh, ác linh của đạo Atula còn lợi hại hơn. Linh chúng của đạo Atula là những linh tự cao tự đại nhất, là ngạo mạn nhất, cái gọi là tâm kiêu ngạo, tâm ngã mạn, cộng thêm với tâm ngạo mạn, đại ngạo mạn, tà ngạo mạn, đều là những đặc trưng của linh ác trong đạo Atula. Bởi do tâm ngã mạn rất nặng, đương nhiên những người này cũng luôn tranh đấu và khủng bố bất tận. Do vậy, đặc trưng của linh ác trong đạo Atula là: Linh Atula - ngạo mạn.
Tôi tỉ mỉ quan sát chư Thiên trong tam giới, đương nhiên linh của chư Thiên có thể nói là thanh tịnh hơn nhiều, ấy vậy nhưng cũng không phải là hoàn toàn thanh tịnh, vẫn có một bộ phận bám chấp. Linh của chư Thiên đương nhiên cũng đều có cả công lực lẫn pháp lực, nhưng cũng có cả sự bám chấp, bởi vì bám chấp mới hình thành nên chư Thiên.
Linh của Dục giới thiên - bám chấp vào ăn, ngủ, yêu. Linh của Sắc giới thiên - bám chấp vào cảm giác dễ chịu của thiền. Linh của Vô sắc thiên - bám chấp vào cái Không.
Có thể nói, linh của chư Thiên không phải là linh ác, nhưng có một số linh chư Thiên có sự bám chấp quá ghê gớm thì cũng sẽ gây chướng ngại cho Thánh đạo, do vậy mà mới có Thiên ma. Thiên ma là do bám chấp mới trở thành Thiên ma. Đương nhiên Thiên ma có pháp lực lớn hơn, họ đến gây chướng ngại cho Thánh đạo, đây chính là đặc trưng của họ.
Ngày nay, hành giả muốn tiến nhập vào Tứ thánh giới thì buộc phải thanh tịnh những điều trên!
09. Trí tuệ quan sát sắc bén
Chân Quân và Tôn Hành Giả đấu pháp
Tôi viết sách, viết đến chương "Trí tuệ quan sát sắc sảo", đột nhiên nhớ đến trong truyện Tây Du Kí, hồi thứ sáu, có một đoạn kể về "Tiểu Thánh ra oai trừ Đại Thánh". Tiểu Thánh ở đây là chỉ Chiêu Huệ Linh Hiển Vương Nhị Lang Thần, còn Đại Thánh là chỉ Mỹ Hầu Vương Tôn Ngộ Không.
Tôi nhận thấy đoạn "nhị Thánh đấu pháp" vô cùng đặc sắc, hoàn toàn cho thấy một trí tuệ quan sát sắc bén, do vậy tôi đặc biệt trích ra một đoạn dưới đây, mọi người đọc thử xem, nội dung này hợp với logic của trí tuệ quan sát sắc bén, rất thú vị.
Đoạn trích như sau: Nhị Lang mở to cặp mắt phượng hoàng ra nhìn, nhìn thấy Đại Thánh biến thành chim sẻ bám trên cây, liền thu pháp về, buông kiếm thần ra, rồi dỡ cung tên xuống, lắc người một cái biến hóa thành con chim ưng, dang rộng cánh, đập cánh lao đi. Đại Thánh trông thấy cũng vỗ cánh bay lên, biến thành một con chim cốc già to lớn bay vút lên trời. Nhị Lang trông thấy vội vàng xù lông, lắc mình một cái biến thành một con sếu biển lớn bay rúc vào trong mây. Đại Thánh lại nhún mình một cái rồi lặn vào khe suối, biến thành một con cá lặn sâu vào trong nước.
Nhị Lang vội vã đến bên suối nhưng không thấy tung tích gì. Trong lòng thầm nghĩ: "Con khỉ này chắc chắn đã lặn xuống nước rồi, định biến thành lũ cá tôm. Hãy đợi ta biến hóa để đi bắt nó." Nói đoạn liền biến thành một con chim kền kền chuyên bắt cá, bơi lượn lờ bên dưới, đầu nhô lên khỏi ngọn sóng, đợi một lúc.
Còn Đại Thánh biến thành con cá, thuận theo dòng nước mà bơi, bỗng nhiên gặp một con chim, gần giống như là diều hâu nhưng lông không có màu xanh, gần giống như là con diệc nhưng trên đầu lại không có túm lông đua dài ra, vừa giống như là chim khoang già, nhưng chân lại không có màu đỏ. "Có khi là Nhị Lang biến hóa thành để đợi ta đây!..." Đại Thánh quay ngoắt đầu lại, bắn tung nước rồi chạy biến.
Nhị Lang trông thấy nghĩ: "Con cá vừa té nước, gần giống như cá chép nhưng đuôi lại không có màu đỏ, vừa giống như cá rô nhưng lại không có vảy hoa đốm, vừa giống như cá quả mà lại không có chấm sáng, vừa giống như cá chim nhưng phần má không có vây nhọn. Sao nó vừa nhìn thấy ta thì đã chạy biến rồi? Chắc chắn đó là con khỉ biến thành."
Nhị Lang mau chóng đuổi theo, đưa cái mỏ mổ mổ. Thế rồi Đại Thánh liền lẩn vào trong nước, biến hóa một cái thành một con rắn nước, bơi đến gần bờ rồi rúc vào bụi cỏ. Nhị Lang vì không chặn được, lắng nghe tiếng nước vọng mà trông thấy một con rắn đang trườn đi, nhận ra đó là Đại Thánh, bèn xoay mình một cái rồi lại biến thành một con hạc xám đầu đỏ, giơ móng vuốt dài giống như một cái kẹp đầu nhọn hoắt lao thẳng đến vồ con rắn nước. Rắn nước nhảy bật lên một cái, lại biến thành một con chim bảo hoa ngơ ngơ ngác ngác đứng trên bãi sông um tùm. Nhị Lang thấy Đại Thánh biến ra thành một con vật thấp hèn - trong các loài vật, chim bảo hoa là loài chim dâm đãng và hạ tiện nhất, bất kể là loan, phượng, ưng nó đều tìm đến đeo đuổi, do vậy không dám đến gần. Lập tức Nhị Lang hiện nguyên hình, bước đến với lấy cây cung, kéo căng dây cung quyết bắn cho Đại Thánh một phát đi đời.
Đại Thánh chớp thời cơ lăn xuống vách núi, trốn ở đó rồi lại biến hóa thành một ngôi miếu thổ địa. Miệng há to giả làm cổng miếu, răng thì biến thành cánh cửa, lưỡi thì biến thành Bồ Tát, hai mắt thì biến thành khung cửa sổ, chỉ còn cái đuôi không kịp thu vén, dựng thẳng lên phía sau biến thành một cái cột cờ. Chân Quân mau chóng lao xuống núi, không thấy con chim bảo hoa đã rơi xuống đâu, chỉ thấy có một ngôi miếu nhỏ, lập tức mở to mắt phượng quan sát kĩ càng, thấy cái cột cờ ở phía sau, liền cười rằng: "Cái con khỉ này! Nó lại còn ở đó lừa ta. Ta cũng đã từng thấy chùa rồi, nhưng chưa từng thấy ngôi chùa nào có cột cờ ở phía sau cả. Đúng là đồ súc sinh làm càn! Nó định lừa ta đi vào rồi sẽ cắn cho một cái. Ta không dám đi vào sao? Đợi ta giơ quyền đấm vỡ cửa sổ, rồi đạp tung cánh cửa này!"
Trong đoạn văn trên: Có Tôn Hành Giả quan sát Nhị Lang Thần. Có Nhị Lang Thần quan sát Tôn Hành Giả. Sức quan sát của hai Thánh đều là sự quan sát tỉ mỉ chi tiết, có thể gọi là "trí tuệ quan sát sắc bén", ở đây toàn là những điều logic và suy luận.
🌟
Liên Hoa Đồng Tử quan sát sắc bén
Năm trí tuệ của Ngũ Phật mà chúng ta đã biết là: Đại Nhật Như Lai - pháp giới thể tính trí. A Súc Như Lai - đại viên kính trí. Bảo Sinh Như Lai - bình đẳng tính trí. Di Đà Như Lai - diệu quan sát trí. Bất Không Như Lai - thành sở tác trí.
Bởi vì bản địa của tôi (Liên Hoa Đồng Tử) là A Di Đà Phật, theo nhân duyên này thì tôi đã phát huy được sở trường của mình là "trí tuệ quan sát sắc bén". Diệu quan sát trí là chuyển đổi thức thứ sáu mà đắc được Phật quả, cũng là trí tuệ quan sát mọi pháp và hơn nữa còn có trí tuệ thuyết pháp.
"Tâm địa quán kinh" viết: "Diệu quan sát trí là khả năng có thể quan sát diện mạo riêng và diện mạo chung của mọi pháp, rồi giảng mọi pháp vi diệu trước đông đảo quần chúng, có thể khiến chúng sinh đạt được tâm không thoái chuyển, như vậy được gọi là diệu quan sát trí."
Diệu quan sát trí mà tôi đã có được là: Chân như - Nhiên Đăng Như Lai. Bát nhã - Thích Ca Như Lai. Duy thức - Di Lặc Như Lai. Tam muội - Liên Hoa Sinh Bồ Tát (Đại Sĩ). Trung quán - Long Thọ Bồ Tát.
Tôi dùng hai đoạn trong kinh Hoa Nghiêm để minh họa cho sự quan sát sắc bén của tôi:
Đoạn 1: "Bồ Tát nhờ có tâm không bám chấp, trong sự đọc ý niệm, có thể quan sát vô số thế giới ở vô số kiếp chứ không chỉ có vô số kiếp ở các Phật quốc. Bồ Tát thấy được sự trang nghiêm nhưng không bám chấp, thấy sự bất tịnh nhưng lại không ghê sợ ghét bỏ. Từ đó mà tĩnh lặng bình đẳng mà quan sát mọi pháp. Bồ Tát thường suy nghĩ: ta chính là mỗi một chúng sinh trong mười phương, sống vô lượng kiếp, thành tựu chúng sinh, tâm không mệt mỏi chán ghét, sống cùng chứ không rời bỏ, đều độ khắp thập phương thế giới, thân làm một chúng sinh, vì tất cả chúng sinh. Bởi vì tâm đại từ bi này của Bồ Tát, mãi mãi không thay đổi, do vậy mới nói là hạnh không bám chấp của Bồ Tát."
Đoạn 2: "Bồ Tát có mười loại từ bi: thường quán chúng sinh, tức là quan sát chúng sinh, vì những người không quy y mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh thấy họ theo tà đạo mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh thấy họ nghèo mà lại không có căn lành mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh mê man trong sinh tử mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh làm những pháp bất thiện mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh bị dục vọng trói buộc mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh lặn ngụp trong biển sinh tử mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh chịu bệnh khổ trường kì mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh không yêu thích pháp thiện mà khởi tâm từ bi; quan sát chúng sinh đánh mất mọi Phật pháp mà khởi tâm từ bi."
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) chính là theo những nhân duyên này mà nhập vào Hoa Nghiêm tam muội, rồi từ đó tiến nhập vào Hoa Tạng Thế Giới.
Hoa Tạng Thế Giới này cũng có những bí mật rất lớn ở trong đó. Đây chính là Hoa Tạng Tịnh Thổ của Phật Thích Ca Mâu Ni (Tam Sơn). Hoa Nghiêm thắng cảnh này giống như là mạng lưới châu ngọc của Thượng Đế.
“Hoa Tạng Thế Giới, thượng cực bảo diễm, hạ triệt phong luân”. [ ND: câu này trích trong Phật Tổ tổng kí, mô tả Hoa Tạng Thế Giới là trên cùng che phủ bởi những ngọn lửa quý, dưới cùng là vòng xoay của gió. ] Là một thế giới đại viên mãn.
Nơi tôi tiến nhập vào không chỉ là Hoa Tạng Thế Giới của Phật Thích Ca Mâu Ni, Hoa Tạng Thế Giới của Đại Nhật Như Lai, mà còn có Cực Lạc Thế Giới của A Di Đà Phật, Mật Nghiêm Thế Giới, Kim Cang Giới của Mật giáo, Thai Tạng Giới, v.v…
🌟
Thần túc phi hành
Tôi thấy mình thường bay đi khắp nơi. Công phu bay khắp nơi này của tôi là khi bản mệnh của tôi được đánh thức, những hành trình này vô cùng thù thắng.
Bởi có được không gian bao phủ sáng chói, phản chiếu ánh sáng của tự thân, tôi không những tự thân có thể phát quang mà còn có thể bao trùm thống lĩnh cả sự huy hoàng chói lọi của chúng sinh khác, liên tục rung động. Công phu thần túc phi hành của tôi cực kì tinh xảo vi diệu, cực quang sáng chói.
Tôi dùng con mắt tâm linh quan sát. Trong ánh sáng chói lọi huy hoàng không lời nào mô tả xiết đó, có vầng sáng rực rỡ của 18 Đại Liên Hoa Đồng Tử, có vầng sáng rực rỡ của Phật Thích Ca Mâu Ni (Tam Sơn), có vầng sáng của Ngũ Phật Tứ Bồ Tát, các vầng hào quang liên tục không ngừng hoạt động ở khắp xung quanh, tất cả tạo nên một vùng không gian huy hoàng giống như một biển hồ ánh sáng rung động không ngừng.
Trong khi tôi thần túc phi hành, có rất nhiều Thiên nhân của các pháp giới đều không ngớt kinh ngạc khi thấy tôi có được ánh sáng như vậy. Nhưng họ dường như cũng rất nhanh chóng hiểu rằng: "Vị đó là Lư Thắng Ngạn."
Khi tôi đi qua những pháp giới ở tầng lớp tương đối thấp, tôi cũng thường nhìn thấy nhiều vô số những hình dạng động vật, hoặc là những gương mặt không thành hình và những hình thể biến dạng cùng xoắn vào nhau, trong pháp giới thoắt ẩn thoắt hiện, họ vây quanh ở xung quanh tôi nhưng không có cách nào đến gần được vầng hào quang của tôi.
Khi tôi đi qua các cõi trời ở tầng lớp tương đối cao, tôi phát hiện ra những chùm sao, ở chính giữa có những hình thể gần giống như Thiên nhân, có vầng sáng mềm mại. Mọi thiên giới đều khiến người ta vui vẻ, là một nơi vui vẻ và tươi mát, đó là một niềm vui cát tường êm dịu khó tả xiết.
Tôi cũng tiến nhập vào pháp giới Vô Sắc, ở đó chỉ cần không thiền định, không tự giác, vô ý thức, vô tu, vô chướng ngại. Tôi tự biết từng chút từng chút một biến thành càng lúc càng to lớn hơn, rộng khắp. Vô lượng, vô biên, vô hạn………. Không có cách nào hình dung được. Nói rõ ràng hơn một chút chính là giống như một viên sỏi nhỏ ném vào trong biển hư không tĩnh lặng vậy.
Đương nhiên khi tôi thần túc phi hành trong tứ Thánh giới, việc bay trong tứ Thánh giới cần dựa vào Bồ Đề Tâm. Những sắc thái sáng chói cao quý nhất có ở trong đó, đây là cảnh giới chân như siêu nhiên, nhưng thật sự là một dạng giải thoát và sảng khoái.
Thần túc phi hành giống như bay lượn bồng bềnh, nhưng nhẹ nhàng như lông vũ, pháp giới giống như nở bùng ra một vũ điệu kì diệu tuyệt vời. Sự quan sát này: Có khi như mộng. Có khi như huyễn. Có khi rõ ràng chân thực giống như có thể đưa tay chạm vào được.
🌟
Khổng Tử và Tăng Văn Chính
Tôi từng nghĩ muốn quan sát xem các Thánh nhân của Trung Quốc đã đi đâu hết rồi? Trong đầu tôi nghĩ đến hình tượng của Khổng Tử. Cùng với những tư tưởng có liên quan mật thiết của tôi, tôi hướng sức chú ý của mình về Khổng Tử. Đây là một hành động lớn bất khả tư nghì.
Trước đây chưa từng có người nào nói về việc Khổng Tử đã đi đâu. Lần đầu tiên tôi thử nghiệm trải nghiệm truy tìm hành tung của Thánh nhân thời cổ đại cách đây nhiều thời đại. Tôi thậm chí muốn đến tất cả các chùa miếu có thờ Khổng Tử, như vậy sẽ đóng góp thêm cho sự thiền định của tôi.
Tôi gọi Khổng Tử. Tôi cầu nguyện Khổng Tử. Đây là một chuyến đi siêu nhiên kì diệu nhất. Tôi cũng không vội vã dùng con mắt tâm linh của tôi để đi tìm kiếm, nhờ đó khiến cho phạm vi ý thức của tôi càng rộng càng xa hơn, tôi đã phát hiện ra có một vài tình huống phát sinh.
Không thấy Khổng Tử đâu. Về cơ bản, Khổng Tử không còn tồn tại nữa. Khổng Tử đã hòa nhập vào thế giới siêu tự nhiên rồi. Khổng Tử đã biến đổi hoàn toàn. Khi tôi đang tìm kiếm Khổng Tử, thậm chí tôi đã thần túc phi hành đến Khúc Phụ [ ND: huyện Khúc Phụ thuộc tỉnh Sơn Đông, quê nhà của Khổng Tử ], đi thăm lăng miếu và ngôi nhà xưa của Khổng Tử, cũng đi thăm cả mộ của Khổng Tử, ngôi làng nhỏ mà Khổng Tử sống, cái cây mà Khổng Tử trồng, tôi đã bay đi tìm Khổng Tử.
Những tư tưởng của Khổng Tử trỗi dậy trong đầu tôi. "Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, như vậy mới thật là biết." "Không ngại hỏi người dưới." "Học không biết chán, dạy không biết mệt." "Nắm hai đầu mà dùng cái ở giữa." [ ND: ý nói không nên cực đoan, thái quá, cẩn thận giữ đạo trung dung. ] "Danh bất chính thì ngôn bất thuận, ngôn bất thuận thì việc bất thành." "Ba đạo đức cần có là nhân trí dũng." "An bần lạc đạo." [ ND: sống vui vẻ hài lòng với hoàn cảnh đạm bạc. ] Chữ "Nhân" của Khổng Tử….
Những tư tưởng này của Khổng Tử nhất thời giống như tuôn trào ra đầy rõ ràng trong mạch suy nghĩ của chính tôi, rất cụ thể tỏ tường. Đây là một dạng biến hóa nội tại của sự thiền định của tôi.
Nhưng Khổng Tử không thấy đâu! Tôi không có cách nào tìm được cụ Khổng trong linh giới!
Tuy nhiên, một sự kiện lớn không ngờ tới đã xảy ra. Tôi dùng "Tứ nhiếp pháp" để kêu gọi Khổng Tử "Cha - Hum - Ban - Ho". Cha - xuất hiện trong hư không. Hum - đi đến trước mặt. Ban - mặt đối mặt. Ho - cảm ứng lẫn nhau. Nhưng người đến không phải là Khổng Tử, mà là Tăng Văn Chính. [ ND: Tăng Văn Chính tức Tăng Quốc Phiên, là một danh thần dưới triều Mãn Thanh. Ông vừa giỏi binh pháp, lại thông tường Nho học, là một người văn võ song toàn. ]
Nay tôi rất nghiêm túc thông báo với mọi người một sự thật, rất đáng ngạc nhiên nhưng đó chính là Tăng Quốc Phiên. Nội tâm tôi chấn động, sự tình khiến người ta không ngờ tới đã xảy ra rồi. Kiếp trước của Tăng Quốc Phiên không ngờ lại là Khổng Phu Tử.
Nhất thời tôi không biết phản ứng ra sao. Khổng Phu Tử có thể nào chuyển thế thành Tăng Quốc Phiên sao? Liệu có khả năng này không?
Khổng Phu Tử là Thánh nhân của cả đất nước Trung Quốc, là thầy của muôn đời, thậm chí, nhân loại trên toàn thế giới đều biết đến, là một bậc thánh triết xuất chúng. Thế còn Tăng Quốc Phiên? Tăng Quốc Phiên (1811 - 1872). Tăng Quốc Phiên là người huyện Tương Hương, sống vào thời Mãn Thanh, đã dùng quân Tương đánh bại quân Thái Bình Thiên Quốc trong trận Hồng Dương, nhờ đó danh tiếng lẫy lừng.
Chính phủ Mãn Thanh ca ngợi Tăng Quốc Phiên: "Học hành có gốc, tầm nhìn cao rộng, trung thành với nước, chính trực kiên cường." Sau khi chết, ông được ban thụy hiệu là Văn Chính Công.
Tôi cho rằng cuộc đời của Tăng Văn Chính có hai thành tựu lớn, thứ nhất là trị quân làm việc, thứ hai là trị học làm người.
Tuy nhiên, việc kêu gọi Tương quân, huấn luyện Tương quân, thống soái Tương quân đánh bay Thái Bình Thiên Quốc của Tăng Quốc Phiên là một công lao vĩ đại, lịch sự ghi chép lại công lao này của ông, nhưng lại bỏ qua thành tựu học tập.
Khổng Tử có từng điều khiển quân binh không? Không có, Khổng Tử đã từng đánh trận chưa? Không có, nhưng Tăng Quốc Phiên lại có thành tựu lớn trên phương diện này. Vậy làm sao lại có sự liên quan ở đây?
Trong quá trình khảo chứng, tôi thấy mặc dù Khổng Tử là văn nhân, nhưng ông lại rất hứng thú ra ngoài làm quan, Khổng Tử chu du khắp nơi chính là hy vọng được Quân Vương công nhận ông. Khổng Tử từng nói với Tử Lộ rằng: "Bất kể văn võ, tìm kiếm sự thật." Nói cách khác là, bất kể là quan văn, bất kể là tướng võ, thì đều cần phải giải quyết vấn đề dựa trên tình hình thực tế. Ý của Khổng Phu Tử muốn nói rằng, ông làm quan võ cũng được, chỉ là Khổng Tử không thực sự cầm quân đánh trận mà thôi.
Lại nói về đạo trị học làm người của Tăng Văn Chính. Tăng Văn Chính có truyền lại hậu thế những cuốn như "Tăng Văn Chính Công gia thư", "Tăng Văn Chính Công toàn tập", "Thánh triết họa tượng kí", v.v…
Học thuật của Tăng Văn Chính rất rộng. Thầy của ông là 32 vị thánh triết, họ là: Chu Văn Vương, Chu Công Đán, Khổng Khâu, Mạnh Kha, Ban Cố, Tư Mã Thiên, Tả Khâu Minh, Trang Chu, Gia Cát Lượng, Lục Chí, Phạm Trọng Yêm, Tư Mã Quang, Chu Đông Di, Nhị Trình, Chu Hi, Trương Tái, Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tằng Củng, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Thức, Hoàng Đình Kiên, Hứa Thận, Trịnh Huyền, Đỗ Hựu, Mã Đoan Lâm, Cố Đình Lâm, Tần Huệ Điền, Diêu Nãi, Vương Niệm Tôn.
Học thuật của Tăng Quốc Phiên đều ứng với 32 vị thánh triết, (Nhị Trình là Trình Hạo, Trình Di), từ nghĩa lý, văn chương, đức hạnh, chính trị, quản lý nhà nước, văn học, ngôn ngữ, và tất cả những chuyên luận khác.
Chỉ riêng một cuốn "Tăng Văn Chính Công gia thư" với hơn 1000 chương văn, nội dung được đề cập đến từ rất rộng lớn như việc kinh bang vĩ quốc, tiến đức làm quan, triều chính quân vụ, trị học tu thân, cho đến những việc nhỏ như sinh kế gia đình, việc vặt trong mối quan hệ con người, đạo dưỡng sinh, không phân biệt việc lớn nhỏ, không có gì là không liên quan. Tăng Quốc Phiên cũng biên tập cuốn "Kinh sử bác gia tạp sao".
Tư tưởng của Tăng Quốc Phiên là: "Chân đạp thực địa, đứng vững vàng và có thái độ làm việc chăm chỉ nghiêm túc từng việc nhỏ sẽ có ngày thành công." "Tinh thần càng nỗ lực thì càng xuất sắc, trí tuệ càng được thử thách gian khổ thì càng tỏa sáng." "Người có nhiều ham muốn thì không thể cứng rắn." "Đồng cảm với khổ đau của người khác, yêu thương chân thành."
Tăng Quốc Phiên ban đầu là một văn nhân. Giống như Khổng Phu Tử, đánh trận cũng không phải là sự nghiệp cả đời của ông, chỉ là ông vì bảo vệ thanh danh và những sự giáo hóa nên mới đứng ra hiệu triệu, lấy tấm lòng nhân hậu để trị quân (lấy việc yêu dân là ý nghĩa cần thiết số một để trị binh), do vậy mới đánh thắng được Thái Bình Thiên Quốc.
Tôi nhận thấy, đạo trị học làm người của Tăng Quốc Phiên cũng giống như Khổng Phu Tử, thậm chí dẫn dắt quân đội đánh trận cũng lấy sự nhân hậu để trị quân. Tư tưởng của Tăng Quốc Phiên và tư tưởng của Khổng Phu Tử có rất nhiều chỗ giống nhau.
Khổng Phu Tử chuyển thế thành Tăng Quốc Phiên sao? Người khác có thể cho rằng điều này quá kì lạ! Tôi thì không! Trong sự quan sát tỉ mỉ của tôi thì: Một khi so sánh hai người với nhau thì căn bản chính là một người.
10. Liên Hoa Đồng Tử và Đế Thích Thiên
Nhân duyên đại sự
Liên Hoa Đồng Tử (A Di Đà Phật) hạ sinh tại cõi Ta Bà, thuyết pháp độ chúng sinh, đương nhiên là một nhân duyên đại sự, hơn nữa đồng thời còn có nhiều Liên Hoa Đồng Tử khác hạ sinh. Mặc dù xưng là Thập bát đại Liên Hoa Đồng Tử, nhưng trong vô số Liên Hoa Đồng Tử thì không thể đếm được, không thể đo lường được những tiểu Liên Hoa Đồng Tử, con số tiểu Liên Hoa Đồng Tử càng nhiều hơn, đều hạ sinh ở nhân gian.
Những Liên Hoa Đồng Tử này cũng chính là quyến thuộc của A Di Đà Phật hóa thân mà đến, ví dụ: • Kim Cang Pháp Bồ Tát. • Kim Cang Lợi Bồ Tát. • Kim Cang Nhân Bồ Tát. • Kim Cang Ngữ Bồ Tát.
Ngoài ra, có 25 vị Bồ Tát nổi tiếng vẫn là do A Di Đà Phật lãnh đạo, các vị đó là: Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Pháp Tự Tại Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Đà La Ni Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, Quang Minh Vương Bồ Tát, San Hải Tuệ Bồ Tát, Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát, Chúng Bảo Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát, Nhật Chiếu Vương Bồ Tát, Tam Muội Vương Bồ Tát, Định Tự Tại Vương Bồ Tát, Đại Tự Tại Vương Bồ Tát, Bạch Tượng Vương Bồ Tát, Đại Uy Đức Vương Bồ Tát, Vô Biên Thân Bồ Tát.
A Di Đà Phật và các vị Bồ Tát, mỗi người đều hóa thành nghìn nghìn vạn vạn tia sáng, hạ sinh tại thế giới Ta Bà để cứu độ chúng sinh của đời này. Trên thân của mỗi Liên Hoa Đồng Tử đều có kí hiệu đặc thù, kí hiệu này một khi đã được chứng nhận là liền biết được, từ đó có thể chứng minh cho những gì tôi nói.
Sau này khi tôi lui về, tôi sẽ làm những việc sau:
- Chứng nghiệm Phật.
- Chứng nghiệm Bồ Tát.
- Chứng nghiệm Kim Cang.
- Chứng nghiệm Hộ Pháp.
- Chứng nghiệm chư Thiên.
Vì tôi Liên Hoa Đồng Tử (A Di Đà Phật) đến chứng nghiệm ai là Hoạt Phật chuyển thế (Rinpoche) cho nên lập tức đưa mắt một lượt là có thể xác định được.
Những Phật Bồ Tát chuyển thế này, nếu như có thể tập hợp lại cùng chuyển pháp luân của Phật pháp thì không còn gì bằng. Đạo Phật mỗi ngày hưng thịnh vẻ vang thì Phật Quốc được kiên cố vĩnh viễn, điều này chẳng mấy chốc sẽ đạt được.
Thế giới Ta Bà hiện tại vẫn tồn tại ở tình trạng do chư Thần điều khiển, hơn nữa lại mỗi vị mỗi kiểu theo cách của họ. Đạo Phật mỗi ngày một bại hoại. Biểu hiện bên ngoài thì là Phật giáo đang rất thịnh hành trên thế gian này, kì thực các cao linh ở phía sau chỉ là các Thần mà thôi.
Bởi tôi là một vị mang nhân duyên đại sự mà đến đây, cuối cùng tôi đã hiểu rõ nhiệm vụ của mình. Tôi cần phải thức tỉnh tâm linh của những vị Phật Bồ Tát chuyển thế này, yêu cầu họ mau chóng bước ra độ hóa chúng sinh, bằng không việc độ hóa cũng sẽ không còn kịp nữa.
🌟
Đế Thích Thiên
Đế Thích Thiên tức Đao Lợi Thiên (tổng cộng 33 Thiên), bốn phương mỗi phương là 8 Thiên, ở chính giữa là Đế Thích Cung, hợp lại gọi là 33 Thiên Cung.
Nhân duyên sinh ra cõi trời 33 là do một người vợ lạnh nhạt với chuyện dâm ái, trong lúc tịnh cư đã giữ năm giới và làm mười điều thiện, sau khi qua đời thì phẩm hạnh sáng chói hơn cả mặt trăng mặt trời, sống ở phía trên cõi người, giống như vẫn mang một nỗi lo đau đáu, do vậy gọi là Đao Lợi Thiên.
Tên tiếng Phạn của Đế Thích Thiên là Indrah (Nhân Đà La), tên đầy đủ là Sakro Devanam Indrah, sống tại Hỉ Kiến Thành trên đỉnh núi Tu Di. Mẹ của Phật Thích Ca Mâu Ni - phu nhân Maya sau khi chết đã lập tức thăng lên cõi trời này, sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni vì để độ hóa cho mẹ mình đã thăng lên Đao Lợi Thiên, giảng Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh cho mẹ.
Tôi hạ giáng thế giới Ta Bà, đã đến Đế Thích Thiên, từng đi qua:
- Thiện Pháp đường - nơi Phật Đà giảng kinh.
- Vườn Chúng Xa - những cỗ xe thần túc.
- Vườn Tạp Lâm - là nơi thắng cảnh của Đế Thích.
- Vườn Hỉ Lâm - nơi có những niềm vui vô thượng.
- Vườn Thô Ác - nơi có các dụng cụ thần thánh của chư Thiên.
- Tứ Bảo tháp - nơi có xá lợi của Phật Đà.
- Đế Võng Minh Châu - quang minh tối thắng.
Đế Thích Thiên và tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) nhân duyên rất sâu, bởi vì Đế Thích Thiên công chúa và công tử đều theo tôi hạ sinh ở nhân gian. Hơn nữa, Đế Thích Thiên công chúa và công tử chính là: Lư Phật Thanh. Lư Phật Kì.
Nói ra cũng kì lạ, ngay sau đó lập tức có rất nhiều (vô số) Đế Thích Thiên nhân hạ sinh ở nhân gian. Những thiên nhân này tay đều kết ấn Đế Thích Thiên, nói cách khác là những đứa bé sơ sinh khi vừa mới ra đời, đứa nào tay cũng kết ấn Đế Thích Thiên, thần diệu phi phàm. Những đứa bé sơ sinh do Đế Thích Thiên nhân chuyển thế do tôi ấn chứng có thể nói đã có vô số rồi.
Phật Thích Ca Mâu Ni và Đế Thích Thiên Chủ có nhân duyên rất sâu, còn có "Phật thuyết Đế Thích sở vấn kinh" truyền đời. Ngoài ra, Chân Phật Kinh của Chân Phật Tông cũng là Đế Thích hỏi Liên Hoa Đồng Tử, có thể thấy sự tương đồng về nhân duyên.
Đế Thích Thiên ở trong mandala Thai Tạng Giới chính là một nhóm người trong viện Thích Ca. Có thể nói bản địa của Đế Thích Thiên tức là Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn tôi thì do Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh giáo hóa. Tam Sơn tức là ba thân của Phật Thích Ca Mâu Ni. Do vậy, nhân duyên của tôi và Đế Thích Thiên thật sự là không có lời nào có thể nói hết.
🌟
Chứng nghiệm sứ mệnh lớn
Đến ngày hôm nay tôi mới biết nhiệm vụ và sứ mệnh thật sự của mình khi đời này hạ giáng thế giới Ta Bà. 35 vị Phật đã đưa chỉ thị của Phật cho tôi là: Đi chứng nghiệm Phật, chứng nghiệm Bồ Tát, chứng nghiệm Kim Cang, chứng nghiệm Hộ Pháp, chứng nghiệm chư Thiên. Dẫn dắt những người có căn khí lớn này tu hành. Rồi từ căn khí lớn đó mà đi độ hóa chúng sinh.
Chứng nhận cho những người tiếp nối chuyển thế và hóa thân này là Rinpoche (Hoạt Phật) và Kim Cương Thượng Sư, kết hợp sức mạnh lớn nhất để triển khai đại sứ mệnh cứu độ.
Tôi biết ở thế giới Ta Bà có rất nhiều người có căn cơ kiếp trước cực kì tốt, bản địa của những người họ đều là vị Phật nào đó, Bồ Tát nào đó….
Nhưng đáng tiếc là, trong lục đạo luân hồi, chìm nổi trong biển dục, chướng ngại đeo bám, họ đã quên mất cái gốc của mình, không có cách nào quay đầu để bước đến bờ bên kia, bản tính thanh tịnh từ lâu đã ô nhiễm, những kí hiệu Phật trên thân của những người này đã trở nên rất mờ rồi. Mặc dù đã mờ nhưng kí hiệu thì vẫn còn đó. Tôi cần tìm ra và chỉ cho họ thấy rõ kí hiệu Phật. Sau đó giáo hóa họ.
Tuy nhiên, tôi cũng hiểu rằng, nhiệm vụ này vô cùng gian khó. Chỉ ra được kí hiệu Phật thì rất dễ thôi, dùng thần thông của diệu quan sát trí là có thể biết được. Nhưng cái khó là cần họ phải đi trên con đường tu hành lâu dài, không chỉ tự tu mà còn cần đi độ chúng sinh. Nếu như những Rinpoche hoặc Kim Cương Thượng Sư này có thế bền vững mãi như vậy thì quả là điều quá tốt!
Nhưng, nếu như những thói quen mới không thể thay đổi được thì nghiệp chướng tái hiện, tôi có cố gắng hết sức để kéo họ thăng hoa thì họ cũng cố hết sức để chìm xuống. Những Rinpoche (Hoạt Phật) này hoặc Kim Cương Thượng Sư cũng có thể đọa vào địa ngục Kim Cang.
Do vậy: Chứng nghiệm dễ. Giáo hóa khó. Độ chúng sinh càng khó. Cuối cùng tôi đã hiểu nhiệm vụ của cuộc đời này, sứ mệnh lớn của cuộc đời này. Tuy nhiên, nhiệm vụ quá lớn, thực sự khiến tôi trong lòng lo lắng như có lửa đốt.
11. Tu xuất Bổn tôn nguyên thần của chính mình
Tha lực Bổn tôn
Ngày nay, rất nhiều hành giả Mật giáo và những nhân sĩ của các tôn giáo tông phái khác đều có một quan niệm rất lớn nhưng lại rất sai, cho rằng pháp Bổn tôn chỉ là một pháp tu cao linh ở sau lưng mà thôi, có nghĩa là tất cả đều chỉ là tha lực. Cảnh giới cao nhất của tu hành pháp Bổn tôn chẳng qua chỉ là có được sự gia trì, trợ giúp và cảm ứng của Bổn tôn, tất cả pháp lực đều đến từ tha lực Bổn tôn.
Vì thế, có người chủ trương: Không cần có Bổn tôn. Cần tiễn Bổn tôn đi. Thậm chí hàng phục Bổn tôn. Ngoại giới đã có người đề xuất những ý kiến kiểu như thế này.
Kì thực, chủ trương kiểu này là chỉ biết một mà không biết hai, những gì mà họ biết thì cũng chỉ là cái lớp vỏ bọc bên ngoài mà không biết cái cốt lõi bên trong.
Tuy nhiên, kết quả của sự truyền bá sai lầm này cũng sẽ khiến cho rất nhiều hành giả Mật giáo không biết cần phải làm sao, thậm chí cho rằng điều này là sự thật, bèn từ bỏ luôn pháp Bổn tôn, cuối cùng cũng bỏ luôn pháp tu trì Mật giáo, đổi sang tu pháp khác, điều này là cực kì đáng tiếc.
Cũng có người hỏi tôi thế này: "Lư Sư Tôn, có tha lực Bổn tôn hay không?" Tôi trả lời như sau: "Không sai, thật sự là có tha lực Bổn tôn, Bổn tôn cho chúng ta sự gia trì, trợ giúp, cảm ứng, pháp lực, đây đều là tha lực Bổn tôn, tuy nhiên đây chỉ là một hiện tượng trong số những cảnh giới cảm ứng mà thôi. Đã có được sự tương ứng tha lực Bổn tôn rồi, chúng ta còn cần phải tu xuất ra được tự lực Bổn tôn, có được tự lực Bổn tôn rồi thì mới xem như là đạt được thành tựu."
Tôi nói: "Bên ngoài đồn rằng, pháp Bổn tôn toàn là tha lực, đó là điều sai lầm. Chân Phật Mật Pháp của chúng ta không chỉ có tha lực Bổn tôn mà còn phải tu xuất Bổn tôn nguyên thần của chính mình, đây chính là tự lực Bổn tôn. Chân Phật Mật Pháp có thể khiến người ta tức thân thành Phật, điều này hoàn toàn không phải là hư vọng. Tôi là người đã đi qua con đường này, làm sao có chuyện không hiểu đạo lý này."
Tôi còn nói: "Còn có những kiểu người không hề tu Mật giáo, chỉ là đứng bên ngoài cánh cửa Mật giáo nhòm vào xem xét mà đã bắt đầu phê bình pháp Bổn tôn của Mật giáo rồi, cho rằng Bổn tôn không tốt, là tha lực, cần phải tiễn Bổn tôn đi, tất cả chỉ dựa vào chính mình mà tu, việc này là thực sự không chấp nhận được. Tôi viết chương sách này chính là muốn cho bọn họ xem xem làm sao tu xuất được tự lực Bổn bôn. Một khi đã tu xuất được tự lực Bổn tôn rồi thì có thể tức thân thành Phật, thực sự không sai!"
🌟
Tự lực Bổn tôn
Tôi cho rằng: Tự lực Bổn tôn của Mật giáo chính là nguyên thần mà Đạo gia nói đến. Đạo gia tu luyện pháp nguyên thần, tôi đã viết trong cuốn "Thông linh mật pháp thư", chính là:
- Quan sát nguyên thần của chính mình (pháp quán thần).
- Nạp và xả khí của sao Thiên Cương [ chính là sao Bắc Đẩu ], quang minh hiển thần (pháp bồi thần).
- Khai tượng chân quyết (pháp hiển thần).
- Rút thần hợp nhất (pháp hợp thần).
- Thân ngoại hóa thân hiển thần thông (pháp xuất thần).
Đạo gia tu luyện nguyên thần của chính mình, cùng với Mật giáo tu luyện tự lực Bổn tôn của chính mình, mặc dù phương pháp khác nhau, nhưng nguyên lý thì giống nhau. Đạo gia nói về "tinh, khí, thần", Mật giáo thì tu "khí, mạch, điểm", căn bản là liên thông với nhau không khác biệt.
Đặc điểm của tự lực Bổn tôn của Mật giáo như sau:
- Tự lực Bổn tôn - chính là Phật thức chân chính của hành giả, là thân thể mới, cùng với thân thể xương thịt là hai, mà cũng là một.
- Tự lực Bổn tôn - có đầu, tay, chân, cơ thể, nhưng không có thực thể.
- Tự lực Bổn tôn - là khi trí huệ khí hiển lộ và phát ra thì mới xuất hiện, là năm khí của cơ thể người kết hợp lại mà thành, chủ yếu là mệnh khí.
- Tự lực Bổn tôn là khí đi vào trung mạch, chuyển hóa thành thân ánh sáng ngũ sắc.
- Tự lực Bổn tôn có thể tu thành 32 tướng, 80 vẻ đẹp kèm theo, có thể biến hóa ra vô số để đi làm lợi ích chúng sinh.
- Tự lực Bổn tôn là sắc thân của Phật, đại diện cho Phật tính.
- Chỉ có người đã tu chứng tự lực Bổn tôn thì mới có thể ấn chứng tự lực Bổn tôn của người khác, mới có thể cảm nhận và nhận biết được.
- Thành tựu tự lực Bổn tôn thì Phật quả kiếp này sẽ thành tựu.
🌟
Công pháp
Hành giả Mật giáo phải tu được chuyết hỏa định, nhờ chuyết hỏa đi lên, minh điểm hạ xuống mà sinh ra tứ hỉ tứ không. Lúc này minh tướng sẽ xuất hiện. Tính Không trở nên kiên cố và xuất hiện rõ ràng. Kết quả của "lạc không song vận" là sẽ sản sinh ra ánh sáng. Chỉ cần sau khi tất cả chướng ngại đều được giải thoát, sự quang minh chân chính cuối cùng sẽ xuất hiện, đó là tự lực Bổn tôn thuần tịnh. Tự lực Bổn tôn không phải là do quán tưởng mà ra. Tự lực Bổn tôn không phải là vọng tưởng. Tự lực Bổn tôn không phải là huyễn ảo. Tự lực Bổn tôn chính là sự hiển hiện trạng thái tâm vi tế nhất, còn được gọi là "thắng nghĩa quang minh". Đó là "dương thần".
Lại có người hỏi tôi, "dương thần" là cái gì? Tôi đáp: "Trạng thái tâm phân làm hai loại, một loại là trạng thái tâm ô trược, một loại là trạng thái tâm vi tế. Sự xuất hiện của trạng thái tâm ô trược là xuất ra âm thần, còn trạng thái tâm vi tế là dương thần. Có một số người khi ngủ, trạng thái tâm ô trược sẽ chu du bên ngoài thì đây chính là hiện tượng xuất âm thần. Ngoài ra, khi người ta chết, nếu không trải qua sự tu luyện thì cũng giống như hiện tượng xuất âm thần."
🌟
Bổn tôn pháp tổng thuyết
Thế giới ngày nay, nhân loại ngày càng tự cao tự đại, ngay cả giới tôn giáo cũng như vậy. Một số người tu hành mới nếm được pháp vị đã tự nhận vơ là mình đã đạt đến tận cùng giới hạn rồi.
Người người tranh dành đứng đầu, tự coi mình là vua, đây chính là: Linh tiêu bảo điện để ai ngồi Bao đời vua chúa cũng thay nhau Ta nay kẻ mạnh nên làm chủ Anh hùng hào kiệt nào dám tranh.
Mỗi một người tu hành đều trở thành kẻ mạnh, giống như Tinh Vân Đại Sư thì làm ra một Phật quang nhân phái, Chứng Nghiêm pháp sư thì làm một Từ tế nhân phái, đều có một kiểu khí thế thống nhất giang hồ. Còn những pháp sư khác thì cũng làm to tát như bão táp cuồng phong, tranh giành địa bàn, người nào cũng không thích sự nhỏ hẹp, người người đều vì gia nghiệp của bản thân.
Đương nhiên, bọn họ đều vẫy ngọn cờ Phật giáo, nhưng liệu có phải là lập tâm đoan chính muốn tu thành tựu Phật Bồ Tát hay không thì đó lại là một chuyện hoàn toàn khác!
Lại còn có kiểu người ngu si, không hiểu nghĩa đế sâu xa của pháp Bổn tôn, chỉ biết Bổn tôn là gia trì, trợ giúp, tương ứng mà thôi. Con người cần tự lực, không thể dựa dẫm vào tha lực, liền quyết định từ bỏ, tiễn đi, hàng phục Bổn tôn. Muốn la hét đánh lộn cùng với Bổn tôn Phật Bồ Tát.
Trên thực tế, nghĩa đế sâu xa của pháp Bổn tôn của Mật giáo là tha lực Bổn tôn gia trì, tự lực Bổn tôn xuất hiện, hai cái này hợp nhất, không có sự phân biệt, có tha lực, cũng có cả tự lực thì đó mới là ý nghĩa quan trọng cơ bản của sự thành Phật.
Con người đã học “cái gì tròn vành vạnh, sáng rực rỡ, tồn tại suốt xưa nay?” Lửa không thể đốt cháy, nước không thể nhấn chìm một viên ngọc mani sáng chói. Làm sao tiễn? Làm sao bỏ? Rồi làm sao mà hàng phục?
12. Pháp Vương Ganden Tripa
Pháp Vương tặng quà
Trong Mật tông Tây Tạng, dưới Dalai Lama thì vị Pháp Vương cao nhất là Ganden Tripa. Vào 10 giờ sáng ngày 5 tháng 9 năm 1996, ngài đã đến thăm Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn. Pháp Vương Ganden Tripa hiện là vị Pháp Vương cao nhất của dòng Mũ Vàng [ Gelug – Hoàng mạo phái ] trên toàn thế giới.
Pháp Vương Ganden Tripa là người kế thừa biểu tượng của tổ sư phái Mũ Vàng Tsongkhapa, là vị Ganden Tripa thứ 100 đại diện cho Tsongkhapa. Ba ngôi chùa lớn của phái Mũ Vàng Tây Tạng là tu viện Ganden, tu viện Drepung, và tu viện Sera.
Pháp Vương Ganden Tripa là chủ trì của chùa Ganden. Pháp Vương Ganden Tripa có địa vị chỉ dưới Dalai Lama mà thôi.
Pháp Vương và tôi gặp gỡ ở Chân Phật Mật Uyển. Những món quà mà Pháp Vương tặng tôi gồm có:
- Một bộ áo bào của Pháp Vương Mật giáo.
- Một chiếc chày kim cang của Pháp Vương.
- Một chiếc chuông kim cang của Pháp Vương.
- Một chiếc trống cầm tay của Pháp Vương.
- Cam lộ hoàn do chính Dalai Lama đích thân niệm chú.
- Ba món pháp bảo của tổ sư Mật giáo.
- Thuốc quý giá nhất của Mật giáo.
Pháp Vương Ganden Tripa nói với tôi: "Chiếc áo bào của Pháp Vương này là chỉ vào những lúc pháp hội lớn nhất mới mặc. Chiếc áo bào Pháp Vương này có pháp lực vô cùng, từng mũi kim sợi chỉ đều được trì chú mà may thành. Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn mặc áo bào Pháp Vương này thì chính là một Đại Pháp Vương."
Pháp Vương Ganden Tripa nói: "Chày, chuông, trống đều là pháp khí mà Pháp Vương đã sử dụng nhiều năm, tượng trưng cho dòng chảy pháp cao nhất của phái Mật tông Mũ Vàng chảy trong người ngài."
Pháp Vương Ganden Tripa còn nói: "Cam lộ hoàn là niệm chú đến khi tái sinh mới dừng niệm chú. Thuốc trân quý nhất của Mật giáo không được để phơi dưới ánh mặt trời, chỉ khi ngồi thiền trong phòng tối mới được uống, công lực được tăng lên hàng trăm lần." Ngoài ra, ba món pháp bảo của tổ sư Mật giáo thì là bí mật.
🌟
Pháp Vương tung khăn khata
Pháp Vương Ganden Tripa và Lạp Định Rinpoche, Thiên Thanh Geshe đến Seattle Lôi Tạng Tự và biệt thự Cầu Vồng dâng khăn khata lên Phật Bồ Tát. Lúc đó Pháp Vương tung ra 10 chiếc khăn khata, 10 chiếc khăn đều treo trên tay Phật Bồ Tát.
Thiên Thanh Geshe nói: "Nhìn chung, khi Pháp Vương tung khăn khata, nếu trong 10 chiếc khăn khata mà có 3 chiếc treo trên tay thì là bình thường. Còn như lần này thì là khác hẳn, 10 chiếc khăn khata tung ra đều treo trên tay cả, nói thẳng ra là bất bình thường."
Pháp Vương Ganden Tripa nói: "Phật Bồ Tát ở Seattle Lôi Tạng Tự và biệt thự Cầu Vồng quả nhiên phi phàm. Tôi vừa tung khăn khata thì lập tức đã cảm ứng được đến Phật Bồ Tát đều vươn tay ra tiếp nhận, do vậy mà việc có 10 chiếc khăn khata thì cả 10 chiếc đều treo trên tay thật là bất khả tư nghì."
Pháp Vương Ganden Tripa ca ngợi biệt thự Cầu Vồng. Ngài ấy cho rằng đã đi qua rất nhiều đạo tràng trên thế giới rồi, nhưng địa linh khí ở đây thì là số một. Pháp Vương nói: "Đây là nơi vô cùng quý giá cho việc thiền định."
🌟
Pháp Vương thuyết pháp
1 giờ chiều ngày 7 tháng 9 năm 1996. Pháp Vương Ganden Tripa và tôi cùng lên ngồi pháp tọa, tôi ngồi ở ghế chính giữa, Pháp Vương ngồi bên tay phải của tôi. Ở trước mặt phía dưới là vị Thượng sư chủ trì - Thượng sư Liên Thế.
Tôi và Pháp Vương cùng gia trì một pháp hội siêu độ.
Trong bài giảng pháp của Pháp Vương Ganden Tripa, ngài đã nhấn mạnh việc tu hành Mật giáo cần phải:
- Chính pháp - Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền thụ chính pháp, bất kể là pháp Hiển giáo hay Mật giáo đều cần làm theo, người học Mật giáo không được cho rằng Mật giáo là nhanh nhất và tức thân thành Phật nên coi thường Tiểu thừa hoặc Đại thừa. Chúng ta cần dựa vào Hiển pháp làm cơ sở, rồi tiến tới tu Mật giáo, chỉ cần là chính pháp thì cứ làm theo chính pháp.
- Chính niệm - tu hành cần có chính niệm, đây là một trong số bát chính đạo, là một trong những phẩm chất quý giá của việc niệm pháp, phân biệt và rời xa tà niệm. "Khởi tín luận" viết: "Nếu tâm chạy tán loạn thì lập tức nghĩ đến và trụ ở trong chính niệm." "Huệ viễn quán kinh sớ" viết: "Xả tướng nhập thực được gọi là chính niệm."
- Bồ đề tâm - tâm cầu tìm chân đạo, tâm cầu tìm chính giác. Hành giả cần có Bồ đề tâm hạnh nguyện, cần có Bồ đề tâm thắng nghĩa, cuối cùng cần có Bồ đề tâm tam ma địa.
- Căn bản Thượng sư cần lấy việc khai ngộ làm gốc - Pháp Vương Ganden Tripa nhấn mạnh nhất vào Căn bản Thượng sư. Ngài nói, truyền thừa Mật giáo vô cùng quan trọng, Căn bản Thượng sư là vô cùng quan trọng, những chỉ dạy của Căn bản Thượng sư là gốc cho sự khai ngộ của các đệ tử. Thượng sư tương ứng pháp là một đại pháp cơ bản rất quan trọng, không có Căn bản Thượng sư thì sẽ không có sự gia trì và quán đảnh của dòng truyền thừa, không có sự gia trì và quán đảnh của dòng truyền thừa thì không có được sự khai ngộ.
- Bổn tôn pháp - một vị tối thắng tối tôn mà ta vốn có, hơn nữa còn xuất thế gian, do vậy được gọi là Bổn tôn. Và cũng vì có được sự tôn sùng nhất trong số chư Tôn nên gọi là Bổn tôn. Trong Mật giáo, một vị Bổn tôn mà có duyên nhất với ta thì được gọi là Bổn tôn trí huệ.
Pháp Vương Ganden Tripa cho rằng pháp Bổn tôn cực kì quan trọng, hành giả Mật giáo cần tương ứng được với Bổn tôn, cuối cùng sau khi đã thành tựu Bổn tôn thì lấy cõi tịnh độ Bổn tôn làm nơi trở về.
🌟
Liên Sinh Hoạt Phật thuyết pháp
Đối với pháp Bổn tôn thì tôi nhấn mạnh vào tự lực Bổn tôn. Đầu tiên, tâm mạch ngũ sắc cần phát ra được tịnh quang.
- Tịnh quang của tâm mạch ngũ sắc này đòi hỏi hành giả cần phải thấy được minh điểm vi tế của ngũ sắc, màu cầu vồng màu xanh ngọc giống như những hình con mắt trên đuôi của chim khổng tước, hoặc giống như những viên sỏi ném xuống ao tạo nên những gợn sóng, nhưng những gợn sóng này phải có màu ngũ sắc, hoặc giống như chùm đuôi ngựa chuỗi ngọc sáng lấp lánh. Đây là cái thấy giai đoạn một.
- Minh điểm ngũ sắc từ từ tập hợp lại, hiển hiện biến hóa, có dọc có ngang, đôi khi thành hình nửa chuỗi vòng ngọc, có khi thì là hình hoa sen, có khi là đế võng minh châu, có khi là bảo tháp, từ từ lớn dần lên, đầu tiên to bằng cái bát, rồi to bằng cái khiên, như một chuỗi kim cương. Đây là cái thấy giai đoạn hai của hành giả Mật giáo, quan trọng nhất là ở chuỗi kim cương. Sự hình thành nên chuỗi kim cương là quan trọng nhất. "Kim châu kinh" viết: "Muốn có mật ý của chư Phật thì quán thân là chuỗi kim cương. Muốn có được công đức của chư Phật thì đừng tách rời chuỗi kim cương. Muốn biết tất cả các hình tướng chung và riêng của tất cả mọi pháp thì nên quán tưởng sự tồn tại của chuỗi kim cương. Muốn lĩnh ngộ được hết tất cả mọi trí huệ bí mật thì nên quán tưởng ánh sáng của chuỗi kim cương."
- Chuỗi kim cương di chuyển nhanh giống như sao băng, trong sự chuyển động xoáy mà hiện ra một tập đoàn Phật bán thân. Sự xuất hiện của Phật chính là giai đoạn thứ ba.
- Đến giai đoạn thứ tư là xuất hiện Phật toàn thân và Phật song thân. Ánh sáng tính Không của minh điểm phóng đại cho đến khi phủ kín khắp hư không pháp giới. Lúc này là tâm quang của Phật đều hòa nhập vào tâm mạch ngũ sắc trong tâm của hành giả.
- Lúc này hành giả có thể nhìn thấy được 42 Bổn tôn tĩnh tịch, 58 Bổn tôn phẫn nộ.
- Biểu hiện bên ngoài là tất cả hiển hiện, toàn bộ quy về tâm mạch ngũ sắc. Trong ánh sáng cầu vồng ngũ sắc, hiển hiện tự lực Bổn tôn. Đây là đại thành tựu.
Pháp Vương Ganden Tripa nghe tôi nói như vậy, biết rằng cảnh giới mà tôi nói đến thực sự là vô cùng cao siêu.
Pháp Vương Ganden Tripha tặng tôi áo bào Pháp Vương, đây là một ấn chứng trân quý vô thượng. Tôi không những có được ấn chứng của chư Phật mà còn có cả ấn chứng của Pháp Vương nhân gian.
13. Trưởng lão Ngộ Minh và những người khác
Mới gặp Ngộ Minh
Lần đầu tiên tôi gặp trưởng lão Ngộ Minh là ở sân bay Seattle nước Mỹ. Khi đó, ông là chủ tịch hội Phật giáo Trung Quốc. Trưởng lão Ngộ Minh nhận lời mời đến Seattle Lôi Tạng Tự.
Khi mới gặp, con người ông vui vẻ nồng nhiệt, nhưng vẫn có sự uy nghiêm của tượng Phật trong chùa. Khuôn mặt ông đầy đặn như trăng tròn, mày rậm mắt đẹp (thủa thanh niên), bây giờ thì có nét từ bi, da dẻ hồng hào, có một chút vết hằn và một vài hạt mụn cơm nho nhỏ. Trưởng lão Ngộ Minh dáng người đẫy đà nhưng không phải là quá cao.
Diện mạo bên ngoài của trưởng lão Ngộ Minh rõ ràng là: "Vầng trán cao rộng, mặt có tướng Phật." Tôi còn nhớ khi mới gặp tôi, ông nói: "Chúng ta là long hoa hội thượng." "Chúng ta là anh em."
Sau này, người ngoài phê bình trưởng lão Ngộ Minh rằng: "Mặt tròn đầy đặn thì là Phật Bồ Tát long hoa hội thượng sao? Hai người tướng mạo gần giống nhau thì là anh em sao?"
🌟
Nhân duyên hội ngộ
Sự hội ngộ của tôi và trưởng lão Ngộ Minh đương nhiên là có nhân duyên. Trưởng lão Ngộ Minh tự nói: "Từ rất rất lâu rồi đã có lời đồn đại rằng có một vị thần đồng giáng sinh tại Gia Nghĩa, hóa ra thần đồng Gia Nghĩa này chính là Lư Thắng Ngạn." (Đây là ấn tượng đầu tiên của tôi đối với trưởng lão Ngộ Minh.)
Về sau, có hai người cùng đến quy y trưởng lão Ngộ Minh. Ngộ Minh hỏi: "Vì sao đến quy y?" Đối phương đáp: "Thần đồng Lư Thắng Ngạn khuyên như vậy." Trong lòng trưởng lão Ngộ Minh nghĩ, quả nhiên là kì lạ, ta và Lư gì gì đó hoàn toàn không quen biết, chưa từng gặp mặt, tại sao Lư Thắng Ngạn lại khuyên tín chúng đến quy y. (Đây là ấn tượng thứ hai.)
Nhờ có hai ấn tượng này mà mới đưa đẩy cho nhân duyên chín muồi. Trưởng lão Ngộ Minh làm chủ tịch hội Phật giáo, tại Los Angeles nước Mỹ đã xây dựng chùa Hộ Quốc, vẫn luôn có một suy nghĩ muốn bay qua Seattle để xem xem Lư Thắng Ngạn là loại người nào.
Lấy thân phận là chủ tịch hội Phật giáo đến thăm Lư Thắng Ngạn thì cũng có chút khó khăn, áp lực quá lớn. Áp lực không chỉ là từ các đoàn thể Phật giáo khác mà thậm chí từ ngay nội bộ của chính mình.
Trưởng lão Ngộ Minh nói: "Các cán bộ trọng yếu của ủy ban nói tuyệt đối đừng đi gặp Lư Thắng Ngạn. Thậm chí, những đệ tử thân cận của tôi cũng đều bảo đừng đi." Tuy nhiên, trưởng lão Ngộ Minh vẫn kiên trì: "Lư Thắng Ngạn cũng đã xuất gia rồi, đi gặp ông ta thì có gì không tốt?"
Cũng chính vì như vậy, đường đường là một chủ tịch hội Phật giáo Trung Quốc, hội trưởng hiệp hội Tăng già thế giới, ông đã đáp máy bay từ Los Angeles đến Seattle, ngay cả một người tùy tùng đi theo cũng không có. Khi đó, tôi rất cảm động.
🌟
Bước đệm cho sự hòa hợp
Thế giới nội tâm của trưởng lão Ngộ Minh, đối với ba chữ Lư Thắng Ngạn không phải là đặc biệt yêu thích, nhưng chí ít cũng là thái độ bình thường.
Kì thực, trưởng lão cũng hiểu, chính trị cũng như tôn giáo, đều đầy tính chất tranh đấu. Phẩm chất tăng lữ thanh tịnh của hành giả, dưới tính cục bộ của các phe phái, cũng đều có những sự thay đổi to lớn. Những phái của dân thường như phái Thái Hư đại sư và phái Viên Anh pháp sư tranh đấu với nhau, gần đây thì có phái hội Phật giáo Trung Quốc và phái Phật Quang Sơn, cũng đấu nhau tranh quyền đoạt lợi, trong đấu ngoài tranh.
Trưởng lão Ngộ Minh là một người mang tư thái của đại sứ hòa bình, muốn đóng vai trò là nhân vật trung gian kết nối.
Lư Thắng Ngạn là một nhân vật khá gây tranh cãi, nguyên nhân chủ yếu nhất là sự tuyên bố Liên Hoa Đồng Tử giáng sinh. Mặc dù mọi người đều còn cảm thấy khá mơ hồ về danh hiệu Liên Hoa Đồng Tử này, nhưng như thế cũng đã là quá đủ để gây tranh cãi rồi. Năm xưa, Ấn Thuận pháp sư được gọi là Ấn Thuận đạo sư, cách xưng hô này đã từng gây nên nhiều ồn ào và tranh đấu. Cũng may, mọi người còn chưa biết đến Liên Hoa Đồng Tử. Giả dụ từ đầu tôi nói là A Di Đà Phật hạ giáng thì Lư Thắng Ngạn đã chết từ lâu rồi.
Tôi rất muốn đi theo những bước chân của trưởng lão Ngộ Minh. Tôi thật lòng không muốn làm một cái cây vẫy ngọn cờ riêng đứng một mình, gà và chó nên có thể cùng kêu, chứ không nên già đến chết cũng không thèm qua lại. Bước tiến trước của trưởng lão Ngộ Minh khiến tôi sinh lòng muốn tái hòa nhập vào giáo giới, các bên hòa hợp với nhau.
Khi trở về Đài Loan, hai lần tôi đến chùa Hải Minh. Ở Mỹ, tôi đến thăm chùa Hộ Quốc. Trưởng lão Ngộ Minh thường nói với người ta: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là thần đồng Gia Nghĩa." "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn nổi tiếng khắp thế giới."
Tuy vậy, hàng rào ngăn cách mà giới Phật giáo dựng lên cực kì kiên cố, chỉ có dựa vào sức lực của một mình trưởng lão Ngộ Minh thì vẫn không thể đủ. Mỗi một đỉnh núi trong giới Phật giáo (ý chỉ các trưởng lão đứng đầu các phái) từ lâu đã chia năm xẻ bảy, đường ai nấy đi, cho đến khi già chết cũng không qua lại với nhau, Chân Phật Tông và giới Phật giáo cũng chỉ là một trong số các mối quan hệ kiểu đó mà thôi. Chỉ dựa vào một mình trưởng lão Ngộ Minh thì cũng chẳng thể cứu vãn được tình hình.
Tôi lấy một ví dụ: Ba vị đại cao tăng sống ở Mỹ được đồn đại nhiều nhất gồm Tinh Vân đại sư của Tây Lai Tự ở Los Angeles, Tuyên Hóa thượng nhân của Vạn Phật Thành ở San Francisco, và Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn của Lôi Tạng Tự ở Seattle.
Hồi đầu, khi Tinh Vân đại sư đến Los Angeles, Tuyên Hóa thượng nhân ở San Francisco cũng không nhiệt tình hoan nghênh, mọi người trong lòng cũng ngầm hiểu nhưng không ai nói ra. Người trực tiếp đánh phủ đầu Tinh Vân, chính là Tuyên Hóa thượng nhân. (Cục di dân có người mật báo rằng tăng đoàn của Tinh Vân đại sư là giả hòa thượng, giả ni cô. Chỉ có luôn luôn mặc tam y không bao giờ rời thân mới là hòa thượng thật, ni cô thật.)
Khi tôi mới đến Seattle nước Mỹ, tôi đã bị tăng đoàn ở Mỹ vu cáo là: buôn ma túy. (Hải quan có tư liệu, xin tham khảo cuốn Mưa mùa đông ở Seattle.) Tôi bị vu cáo là buôn ma túy. Nhưng tôi thật lòng thật sự nói với mọi người rằng, tôi đã sống ở thế giới Ta Bà này 52 năm rồi, tôi chưa từng nhìn thấy viên thuốc ma túy một lần nào!
Giữa tôi và Tinh Vân: Kể từ khi pháp sư Huệ Tung, đại đệ tử của Tinh Vân đến quy y tôi, tình thế đã thay đổi, Tinh Vân luôn ngầm công kích. Còn tôi thì dựa vào lí mà phê bình ông ta.
Tôi nói cho mọi người biết, đây chính là giới Phật giáo, ngay cả một nước Mỹ đơn thuần cũng không phải là ngoại lệ. Nước Mỹ đã thế thì Đài Loan lại càng không phải ngoại lệ.
Tuyên Hóa thượng nhân thì thôi không nói đến cũng được! Còn Tinh Vân đại sư theo như miệng của Huệ Tung nói ra thì không thể nào ngửi nổi!
🌟
Bổn tôn của trưởng lão Ngộ Minh
Có người hỏi tôi: "Bổn tôn của trưởng lão Ngộ Minh là ai?" Tôi cũng chẳng cần phải liên tưởng, cũng không cần phải quan sát, tôi lập tức nói: "Quan Thế Âm Bồ Tát." Vì sao vậy?
Câu chú mà trưởng lão Ngộ Minh niệm hàng ngày hàng giờ là: chú Đại Bi. Bài kệ mà trưởng lão Ngộ Minh thường trì tụng là: "Quán Tự Tại Bồ Tát, Phổ Đà Lạc Già thường nhập định, tùy duyên phó cảm mĩ bất chu, tâm thanh cứu khổ độ quần mê, cố hào danh vi Quán Tự Tại."
Trưởng lão Ngộ Minh trụ trì Hải Minh Tự, chủ tôn của Đại Bi Viện đều là Quan Thế Âm Bồ Tát. Trưởng lão Ngộ Minh trì chú Đại Bi, tự nói rằng trong chớp mắt có thể nhập vào trạng thái khinh an, âm thanh của chú Đại Bi không ngừng vang lên, không niệm và vẫn tự niệm, giống như ngựa chạy tự do, nước sông tự chảy, gần như có cảm giác không giữ lại được…
Trưởng lão Ngộ Minh mỗi khi gặp kiếp nạn thì liền trì Thánh hiệu Quan Âm và chú Đại Bi. Ông từng ở tại nhà ngục phía đông cũ của chùa Pháp Hoa ở Hàng Châu thầm cầu nguyện Bạch Y Đại Sĩ rằng: "Bồ Tát hiện trăm nghìn vạn tỉ thân, vạn đức trang nghiêm, tốt nhất xin hãy che trở, ban cho một bức tượng Thánh trang nghiêm, để con dễ dàng tập trung quán tưởng…"
Mấy ngày sau, quả nhiên ông mơ thấy một bức tượng Thánh Quan Âm trang nghiêm. Suốt hai mươi năm ông chưa từng quên dung mạo của Thánh, cũng luôn luôn nhớ về ngài từng giờ.
Tuy nhiên, hơn 20 năm sau, có người đã vứt bỏ một bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng nặng 250kg, bỏ mặc một xó tại một hội quán xiêu vẹo. Người phụ trách hội quán nhớ đến trưởng lão Ngộ Minh, thế là liền đem bức tượng tặng cho trưởng lão Ngộ Minh.
Trưởng lão Ngộ Minh vừa nhìn, hóa ra là một bức tượng Quan Âm bằng đồng thau, ông kinh ngạc vì chính xác là dung mạo của vị Thánh trong mơ mà ông quán tưởng.
Trưởng lão Ngộ Minh nói: "Điều ước 20 năm trước, 20 năm sau thành hiện thực, đây là sự kì bí của nhân duyên, cũng là Phật Bồ Tát có linh cảm."
Bổn tôn của trưởng lão Ngộ Minh là Quan Thế Âm Bồ Tát, đây là điều không còn nghi ngờ gì, tuy nhiên, đã có một vấn đề xảy đến. Khi mới gặp trưởng lão lần đầu, rồi gặp lần hai, rồi gặp lần ba, tôi lại phát hiện ra sau lưng của ông còn có một vị đã từng bị lửa thiêu cháy, đầy thương tích, diện mạo hoàn toàn không phải là Quan Âm.
Tôi rất ngạc nhiên, nhưng lại không dám hỏi, trong lòng bối rối. Vấn đề này nằm trong tâm trí tôi rất lâu, làm sao mà sau lưng trưởng lão Ngộ Minh lại còn có một vị "Quan Âm cháy xém" được. Đây nhất định là có nhân duyên đặc biệt. Tôi tỉ mỉ đọc những sách mà trưởng lão Ngộ Minh viết, cuối cùng rốt cục tôi đã tìm được đáp án. Trong cuốn "Nhân Ân Mộng Tồn" của ông viết, trang 243, có ghi lại như thế này: "Có một nhân sĩ sống xa quê tại New York đã gửi thư đến bàn rằng sẽ thỉnh một bức Thánh tượng của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm của Đại Bi Viện để gửi sang Mỹ cúng dường. Thế là anh đóng vào thùng hàng, chuyển đến Cao Hùng, thương lượng với con tàu vận tải Phục Bình Luân để chuyển đồ đi New York. Bức Thánh tượng cao khoảng một mét mốt, được đẽo từ gỗ đàn hương và dát vàng, có 24 cánh tay, trên mỗi bàn tay đều có một con mắt và đều cầm pháp khí.
Tuy nhiên, một điều không may nằm ngoài dự tính, khi Phục Bình Luân đến cảng Hudson đã bị tàu chở dầu của Na-uy đâm trúng và bốc cháy, vì thế mà bức Thánh tượng Quan Âm cũng gặp tai họa của Hồi Lộc. [ ND: Hồi Lộc là một trong những vị thần lửa trong truyền thuyết dân gian Trung Quốc. ]
Tôi đọc xong đoạn văn này thì thốt lên, lạ thay! Lạ thay! Lại tương ứng rồi. Sự quan sát tỉ mỉ của tôi cùng với lời tự thuật của trưởng lão Ngộ Minh đã lại khớp với nhau, như vậy là đã rõ ràng cả rồi. Vị Quan Âm 24 cánh tay này đã luôn ở bên cạnh Ngộ Minh. Còn Ngộ Minh thì bảo Ngài đến chỗ của nhân sĩ ở New York đã cúng dường, nhưng Ngài không chịu đi. Ngài lại trở về theo bên cạnh trưởng lão Ngộ Minh.
🌟
Phụ lục: sự hỗn loạn của giới Phật giáo Đài Loan
Đối với sự hỗn loạn của giới Phật giáo Đài Loan, tôi chẳng dám nhiều lời. Nhưng mọi người hãy thử đọc một bài báo dưới đây thì sẽ hiểu. Bài báo này được in vào ngày 17 tháng 9 năm 1996, trên tờ Thế Giới Nhật Báo.
(Phóng viên Đài Bắc ngày 17 đưa tin.) Hội thảo "Cách mạng Phật giáo" với mục tiêu "hội nhập Phật giáo", ngày hôm qua, ngay trong ngày đầu tiên của cuộc họp đã mạnh dạn đưa ra phương án hội nhập Phật giáo, yêu cầu từ các chùa Phật, đạo tràng, đoàn thể Phật giáo trở lên cần tái tổ chức thành "Tổng hội Phật giáo toàn quốc" mở rộng to lớn hơn. Có pháp sư đề nghị có thể bắt chước hệ thống Thiên Chúa giáo, tổng hội sẽ được hưởng quy chế giống như của Giáo hội Công giáo, và hội trưởng giống như Giáo Hoàng. Có các ủy ban dưới quyền để quản lý toàn diện tất cả các sự vụ của Phật giáo, cùng hưởng những tài sản của giáo hội và phân bổ nguồn lực một cách thống nhất.
Nếu kế hoạch này được thực hiện thì sẽ là một bước cải cách Phật giáo Đài Loan đã tồn tại suốt một trăm năm nay, do mỗi một đạo tràng tự phát triển một hệ sinh thái riêng, gây ảnh hưởng rất sâu sắc.
Chủ tịch giáo hội Phật giáo Trung Quốc - trưởng lão Tịnh Tâm đề xuất rằng đây là một điều lý tưởng, nhưng vẫn cần chờ các trưởng lão Phật giáo cùng bàn luận. Nhưng cũng có pháp sư đề xuất, hiện tại Phật giáo có các đạo tràng có thực lực, ví dụ như Trung Đài thiền tự, Phật Quang Sơn, Từ Tế công đức hội ngày hôm qua đều có đến tham dự đại hội giáo giới này, sau này có ủng hộ phương án hội nhập hay không thì vẫn còn rất khó nói.
Trưởng lão Tịnh Tâm đề xuất, hội nhập Phật giáo là mục đích chủ yếu nhất của việc tổ chức buổi hội thảo lần này, bởi vì Phật giáo Đài Loan đã trở nên cực kì hỗn loạn, nguyên nhân chính là vì thiếu mất một giáo đoàn trung ương có sức mạnh. Mỗi một đạo tràng nếu đều là một cá thể tự phát triển, thích gì làm nấy, mạnh ai nấy làm, thì lo ngại rằng sẽ không còn ai chú ý đến vấn đề phát triển tổng thể của Phật giáo, nếu vậy sự phát triển của Phật giáo có hạn, cũng không có cách nào theo kịp bước tiếng của xã hội.
Chủ tịch quỹ tài trợ văn hóa và tôn giáo Phật Giáo Thanh Niên - pháp sư Tịnh Diệu cũng có kiến nghị cụ thể rằng nên thành lập "Tổng hội Phật giáo Trung Hoa Dân Quốc", làm theo dạng thức của Thiên Chúa giáo, hội trưởng sẽ giống như Giáo Hoàng, các ủy viên có thể tuyển cử làm Hồng Y giáo chủ của Giáo Hoàng. Các ủy ban sẽ được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ của họ vì tất cả lợi ích của giáo giới, và cũng sẽ có những người phát ngôn và quan hệ công chúng để định hình lại hình ảnh của Phật giáo. Ý kiến này đã nhận được sự tán thành của không ít các pháp sư.
Tịnh Diệu cho rằng khi Phật Đà nhập Niết Bàn đã truyền Phật pháp cho tăng đoàn, người xuất gia có trách nhiệm để cho chính pháp trường tồn, giúp chúng sinh thoát khổ được vui, do vậy nên có "một giáo hội trung ương có thực quyền và sức mạnh cụ thể để kêu gọi công chúng", kết hợp giáo nghĩa với hành chính, tạo tầm cao mới cho Phật giáo hiện đại.
Trưởng lão Tịnh Tâm chỉ ra rằng muốn có một giáo hội trung ương có sức mạnh, thì điều quan trọng đầu tiên là giáo hội phải cung cấp được những tài nguyên thiết thực, do vậy, việc tạo dựng năng lực tài chính của giáo hội trung ương là một chủ đề quan trọng khác của hội nghị lần này. Ví dụ, các kênh tài chính rộng mở, kênh đầu tư, chế độ bảo hiểm hoàn thiện để cho những tăng nhân già những năm cuối đời không còn phải lo lắng, chăm sóc các đạo tràng nhỏ yếu, v.v… phân bổ nguồn lực hợp lí mới có thể phát các chức năng thiết yếu của giáo hội trung tâm. Ông có ý thức về sứ mệnh nên mới tổ chức hội nghị tìm kiếm sự đồng thuận.
Trong một cuộc thảo luận nhóm sau đó về việc quản lý tài chính của Phật giáo, pháp sư Tịnh Diệu chủ trì đã chỉ ra rằng tài sản của các ngôi chùa Phật giáo Đài Loan hiện được đăng ký dưới tên của sư trụ trì. Trong trường hợp vị này qua đời, thân nhân của vị trụ trì đó sẽ được kế thừa những tài sản Phật giáo vốn do giáo giới xây dựng nên. Như vậy, những người có tâm hoằng dương Phật pháp lại phải rất lao tâm khổ tứ để tái xây dựng đạo tràng. Ông đề nghị, cách thức mà đạo Cơ Đốc, Thiên Chúa giáo của phương Tây thống nhất quản lý bất động sản của nhà thờ rất đáng để tham khảo học hỏi. Nếu như đạo tràng và các bất động sản đều thuộc về giáo hội trung ương hoặc giới Phật giáo cùng hưởng thì pháp sư chẳng qua cũng chỉ là mượn nơi để hoằng pháp, không cần phải bận tâm về việc xây chùa, sinh lão bệnh tử của tăng lữ đều được tăng đoàn chăm lo, như vậy thì tăng lữ có thể nhất tâm hoằng pháp. Điều này có thể là giải pháp cho nguồn lực không đồng đều của giáo giới.
Nhưng cũng có tín đồ chỉ ra rằng mỗi đạo tràng đều vì lợi ích riêng, lại cộng thêm những hạn chế của luật pháp chính phủ, cho nên rất khó để ủng hộ những tài sản của chùa cho giáo hội, trừ phi phải thay đổi luật pháp trước, nếu không sẽ rất khó thực hiện điều này.
14. Quang và khí
Vài câu cảm thán
Cho đến năm nay, năm 1996, tôi mới công khai chỉ rõ: "Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật!" Trong lòng tôi cũng có đôi chút cảm xúc.
Thế gian này, người người nói Nam mô, nhà nhà thờ Quan Âm, các tín đồ Phật giáo thì mở miệng toàn là Nam mô A Di Đà Phật. Tuy nhiên, có được mấy người có thể hiểu Phật? Lại có được mấy người miệng niệm Phật mà trong lòng có Phật? Sao mà không cảm thán đây!
A Di Đà Phật hạ sinh, đứng trước mặt con người, con người có thể biết được hay không?
Tôi phát hiện ra, con người miệng niệm Phật, nhưng bọn họ lại phỉ báng Phật, đuổi Phật đi, thậm chí muốn giết Phật! Tín đồ Phật giáo chỉ có lầm rầm rập đầu trước Phật gỗ, lầm rầm niệm A Di Đà Phật, cầu nguyện được vãng sinh Tây phương tịnh thổ, thế nhưng khi A Di Đà Phật chân chính hóa thành thân người đứng trước mặt bọn họ thì bọn họ không những không nhận ra mà còn thóa mạ Ngài nữa.
Bọn họ một mặt niệm danh hiệu của Phật, một mặt lại đuổi Phật đi, bảo Phật hãy rời xa những đám người đang niệm danh hiệu của Phật, đây đúng là điều khóc chẳng được, cười chẳng xong.
Tôi từng trông thấy một cảnh thế này: Rất nhiều tín đồ Phật giáo cầm đá ném vào Phật. Tôi chính là vị Phật đó. Tôi đến thế gian. Nhưng, thế nhân không biết.
Tôi còn nhớ hồi trẻ tôi đọc Kinh Thánh. Chính bản thân Chúa Jesus cũng có rất nhiều cảm thán. Ngài đến từ chỗ của Thượng Đế Jehovah, là con trai của Thượng Đế, là người cứu độ mà Thượng Đế ban cho loài người. Thế nhưng, thế nhân không nhận ra ngài, cho rằng là ngài có tâm tham vọng. Thế là, các giáo sĩ và con người đã đem đóng đinh ngài lên thập tự giá để xử tử ngài.
Con người thà phóng thích tên đại tặc Barabbas còn hơn là phóng thích Jesus, không đóng đinh ngài đến chết thì không được. Đương nhiên kết quả là, Jesus đã chết.
Nhưng, Jesus nói: "Khi ta bị treo lên, ta sẽ dẫn vạn người đến với ta!" Ý nói rằng, đợi đến khi ta chết rồi thì thế nhân mới biết. Tôi đọc đoạn kinh văn ngày mà không biết phải nói sao.
Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật, tiếc thay thế nhân không biết. Người muốn vãng sinh đến nơi của Ngài cũng chính là những người đã bài trừ Ngài. Tôi chỉ có thể nói thế này, những con người này vô tội, bởi vì họ cũng hoàn toàn chẳng biết gì về những việc họ làm!
🌟
Thiện quán quang khí
Những pháp mà đời này tôi đã học là rất nhiều, Đạo, Hiển, Mật đều có cả, đến cả lục hào [ ND: lục hào: Một pháp bói toán thời cổ đại, nổi tiếng linh nghiệm nhưng rất khó học ] tôi cũng hiểu rõ, bát quái cũng tinh thông, có thể biết thiên địa lý, hiểu rõ về quỷ thần, quy luật âm dương trời đất đều nắm rõ. Chuyện lớn nhỏ trong tương lai, những lành dữ tai ương quá khứ tôi đều nhìn được giống như nhìn ảnh trong gương.
Tôi đây chính là: Mấy đời hưng, mấy đời bại, thảo luận cùng thần minh. Biết hung định cát, đoạn tử ngôn sinh. Lời nói như vũ bão, hạ bút quỷ thần kinh. Sai khiến trời đất ta làm tốt, hiểu rõ nhân quả suốt ba thời.
Tôi giỏi quan sát quang khí. Tôi phát hiện ra trên thế giới này có một hiện tượng khiến con người vô cùng sợ hãi, hiện tượng này chính là "ma nhập". Tôi phát hiện ra có rất nhiều những con ma ám lên thân con người ta, tuyệt đối không hề ít, tôi cũng tuyệt đối không phải là chuyện bé xé ra to. Ma nhập là một hiện tượng rất phổ biến.
Trong sự quan sát tỉ mỉ của tôi, tôi có thể nhìn thấy ánh sáng, thấy khí, mỗi một người ở trước mắt tôi thì đều giống như hư huyễn. Nghĩa là ở đây có một mặt chân thực và cũng có một mặt hư huyễn. Thực tế là cái chân thực chưa chắc đã chân thực, cái hư huyễn chưa chắc đã hư huyễn.
Tôi phân tích như sau: Chúng sinh cho rằng thế giới hữu hình là chân thực, trên thực tế chỉ là vẻ ngoài. Kì thực, thứ đang thực sự kiểm soát là thế giới tâm linh hư huyễn. Cơ thể vật lí này bị tâm linh điều khiển, thể xác chỉ là một con rối, tâm mới là chủ nhân.
Ngày nay, hiện tượng ma nhập là, con người này mặc dù có vẻ có tâm trí, nhưng đằng sau của cái tâm trí đó lại còn có một cái linh đang khống chế anh ta. Cái tâm trí của người này đã không còn cách nào tự chủ được. Hiện tượng này như là một cỗ xe song mã, hoặc cỗ xe do nhiều con ngựa cùng kéo.
Hiện tượng ma ám này nặng thì là tẩu hỏa nhập ma, mắc bệnh tâm thần, nhẹ thì là bị xung phạm, xung sát, bị trộm khí, v.v…
Các thể loại linh bám lên thân là rất nhiều kiểu, có linh động vật, linh địa ngục, linh ác quỷ,… Ngay cả "phi nhân" được nhắc đến trong kinh Phật cũng "ra quân". Trong sự quan sát của tôi, hiện tượng này càng ngày càng nghiêm trọng. Ngược lại, muốn tìm được một người có thể thực sự tự chủ được thì vô cùng khó khăn.
Một số người biểu hiện bên ngoài là người hoàn toàn bình thường, tuy nhiên, trong thế giới nội tâm thì thực sự là người có nhân cách dị thường. Nguyên nhân gì khiến anh ta nhân cách dị thường, những gì tôi phát hiện được là: "Ma nhập".
Trong sự quan sát tỉ mỉ của tôi: "Phi nhân" trong kinh Phật là chỉ tinh linh của loài ma, "phi nhân" trên phương diện này tương đối nhiều, quang và khí của chúng vô cùng phức tạp, hiện lên rất nhiều màu sắc, phần đông những "phi nhân" là thuộc kiểu này. Còn pháp lực của chúng thì cũng đều cao hơn con người, nên rất dễ khống chế tâm linh của con người thông thường, con người bình thường sẽ theo ý muốn của "phi nhân" mà đi làm một số việc.
Điều nghiêm trọng là, khả năng của những "phi nhân" trong kinh Phật này tương đối mạnh, vượt xa linh động vật thông thường. Thậm chí, "phi nhân" còn hoạt động trong giới tôn giáo, từ lâu đã xâm nhập vào các đoàn thể tôn giáo. Các nhân vật đầu não của đoàn thể tôn giáo kì thực cũng bị "phi nhân" ám lên người. Ý tôi muốn nói rằng, chớ thấy tổ chức của anh ta to, có thực lực, sự nghiệp tôn giáo hoành tráng, nhưng lại chẳng biết rằng đó chỉ là một tổ chức do tập đoàn "phi nhân" khống chế.
Chúng ta biết rằng: Kê đồng là hầu như được linh cấp thấp nhập vào thân. Một số người thông linh hoặc thầy bói đều là có linh cấp thấp nhập vào người.
Đáng tiếc là "phi nhân" trong kinh Phật đều đã xông ra, thâm nhập trong thời kì mạt pháp. Bọn họ xuất hiện để điều khiển người tu hành, khiến người tu hành lầm tưởng rằng mình đã "tương ứng", hoặc đã đạt đến cảnh giới rồi, sau khi hiển hiện được một ít thần thông nhỏ liền tự cao tự đại. Hiện tượng này cực kì nhiều.
Tôi cho rằng, muốn không bị "ma nhập", người tu hành cần phải đi theo bát chính đạo của Phật Đà. Ngay tại đây ngay lúc này, bát chính đạo đã xuất hiện những tia sáng của nó.
- Chính kiến - hiểu rõ về lý thuyết tứ diệu đế, trí huệ của vô lậu.
- Chính tư duy - suy ngẫm về sự tăng trưởng của trí huệ chân chính.
- Chính ngôn - thanh tịnh khẩu nghiệp.
- Chính nghiệp - thanh tịnh thân nghiệp.
- Chính mệnh - thân khẩu ý thanh tịnh, làm theo chính pháp.
- Chính tinh tấn - chăm chỉ thực hành chính pháp.
- Chính niệm - ý niệm đúng đắn, không có tà niệm.
- Chính định - thiền định thanh tịnh.
🌟
Quang khí phức tạp
Tôi quan sát thấy, trong những hành giả hiện đại thì người có quang khí phức tạp nhất là Thanh Hải Vô Thượng Sư. Tôi đã nhìn mấy lần mà lần nào quang khí của bà cũng không giống nhau. Cũng giống như con người của bà ta, lúc thì là một tì kheo ni, lúc thì lại là người mặc đồ trắng đội mũ trắng, lúc thì lại trang điểm thế tục, lúc thì lại trang điểm như một quý phu nhân…
Thân phận của bà ta có nguồn gốc rất phức tạp, chính xác đã phản ánh quang khí phức tạp của bà. Quang khí biến đổi thì đương nhiên nhân cách cũng biến đổi, ngay cả quần áo cũng thay đổi.
Bà ta trang điểm thành một Nữ Vương Bệ Hạ, người khác cho rằng rất lạ, nhưng tôi thì không, bởi vì tôi biết nguyên nhân chính là cao linh sau lưng bà là Đại Phạm Thiên Vương.
Trong Ấn Độ giáo, Đại Phạm Thiên Vương chính là chủ thần của Ấn Độ giáo, là chúa tể khai thiên lập địa, vốn dĩ nổi danh thiên hạ. Tính cách của Đại Phạm Thiên Vương là độc đoán, cũng thích biến hóa.
Trong "Thập nhị thiên báo ân kinh" có viết: "Phạm Thiên là chúa tể của Thiên Vương, là cha của chúng sinh, khi vị này vui thì thế gian được yên ổn không loạn lạc. Vào thời kì sơ khai, vị này sáng tạo ra thế gian, chúng sinh không loạn, là do vị này vui. Khi vị này tức giận, thế gian bất an, có đủ loại bệnh, ngay cả cây cỏ cũng đều ủ rũ, chúng sinh bị mê hoặc, ai ấy đều như người say."
Chính bởi cá tính của Đại Phạm Thiên Vương, cho nên các Thiên Chúa do ngài hóa hiện ra, Thiên Đế là do ngài hóa hiện, Thượng Đế là do ngài hóa hiện, Jesus là do ngài hóa hiện, Allah là do ngài hóa hiện, thậm chí các giáo đồ của Ấn Độ giáo cũng nói Phật Đà cũng là do ngài hóa hiện…. Quang khí của Đại Phạm Thiên Vương thay đổi liên tục, sự hỉ nộ của ngài là vô thường, thân phận biến hóa thay đổi rất nhiều.
Quang khí phức tạp trên người Thanh Hải Vô Thượng Sư mà tôi quan sát được chính là cũng biến hóa như vậy. Hơn nữa, lời nói và hành động của bà ấy đều là hình ảnh của Đại Phạm Thiên Vương. Các đệ tử của Thanh Hải Vô Thượng Sư, dưới quang khí của Đại Phạm Thiên Vương, ai ai cũng như người say.
Chú thích thêm: Cha của chúng sinh là Đại Phạm Thiên Vương, nhưng, trong "Chư thuyết bất đồng kí" quyển thứ 8 có viết: "Gốc mà có thể sinh ra toàn bộ chúng sinh hữu tình, thì sẽ được gọi là chủ của tất cả sự sinh ra. Nhưng thực sự thì chúng sinh đã sinh ra từ trước trong vô thủy, chẳng phải do Phạm Thiên Vương sinh ra. Đấng Như lai cũng là như vậy. Từ những chúng sinh kém cỏi nhất, nhỏ nhất như sợi tóc, cho tới những chúng sinh lớn lao, bậc giỏi giang siêu việt, đều như nhau cả, đều từ Phật tâm mà sinh ra.”
🌟
Khí đen mãnh liệt nhất
Trong số các hành giả đương đại, người có khí đen phủ kín toàn thân, hơn nữa đám khí đen còn mạnh nhất, chính là Lâm Vân đại sư.
Điều nực cười nhất là, Lâm Vân hay giảng khí, nhưng toàn thân lại đầy khí đen. Gần đây khi quan sát Lâm Vân đại sư, tôi phát hiện ra vốn dĩ một người khí đen bám đầy thân như ông, giờ ngay cả đám khí đen cũng không muốn ông ta nữa rồi. Khí đen đã yếu đi, quang khí khác cũng chẳng vào nữa, thân thể ông ta xem ra đã rất yếu, e rằng đã mắc bệnh kinh niên rồi.
Tôi nhận ra cao linh ở sau lưng Lâm Vân là Đại Tự Tại Thiên Trưởng Tử, đương nhiên cũng là một vị thần của đạo Bà-la-môn, được gọi là Thần Chướng Ngại hoặc Thường Tùy Ma. Quang khí của nó là màu đen đặc, do vậy quang khí trên người của Lâm Vân cũng là màu đen đặc.
Trong "Tứ Bộ Pháp" có viết: "Đại Tự Tại Thiên Trưởng Tử luôn hừng hực tâm tham, thích nữ sắc, thích chạm vào phụ nữ và ôm ấp họ, thường sống ở chỗ các Thiên Nữ…."
Xung quanh Lâm Vân có nhiều phụ nữ theo, điều này cũng là một trong những sự tương ứng.
Còn nữa, Lâm Vân tự xưng là Hắc giáo, thật sự là không tính mà hợp. Tất cả mọi điều về Lâm Vân, trong chương trước tôi đã nói rồi, ở đây không cần phải nhắc lại nữa. Việc tu hành, cần cẩn thận! Cẩn thận!
Bởi vì: Đạo đức cao rộng ma chướng cao Thiền cơ vốn tĩnh sinh ma quái Tâm ta chính trực theo trung đạo Ngoại giáo ta vạch đường phân chia Thân ý chẳng còn màng ái dục Chưa đạt tính Không tự ưu phiền. Vui gì khi chỉ có tâm tà Cuối cùng chính đạo sẽ diệt tiêu.
Như thế nào mới là chính đạo? Xưa nay có năm: Một là, chân như. Hai là, bát nhã. Ba là, duy thức. Bốn là, du già. Năm là, trung quán.
Tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn), cuộc đời này đã đi trên con đường du già, cũng chính là tương ứng với Bổn tôn, rồi lại tu xuất được Phật tính Bổn tôn của chính mình.
Tôi đã đi con đường tu hành này một cách đầy gian khổ, đầy tinh tấn. Tứ gia hành. Thượng sư tương ứng. Bổn tôn. Bảo bình khí. Chuyết hỏa. Minh điểm. Vô lậu. Vô thượng mật. Kim cang pháp. Đại viên mãn.
Quá trình này tuyệt đối không phải một bước lên trời. Tôi đã cưỡng lại được tâm tham danh lợi, tâm tham tình dục. Có một bài kệ rằng: Gốc của tình dục luôn như thế, Có tình có dục lẽ bình thường, Những vị sa môn khi tu luyện, Dứt dục quên tình tức là thiền. Cẩn thận gìn giữ tâm cho vững, Như trăng hôm đó sạch bụi trần, Thực hành tiến bộ không mắc lỗi, Thành tựu viên mãn Đại Giác Tiên.
Có người cho rằng việc tu hành của tôi chỉ là thuận mồm nói khơi khơi vậy thôi. Họ làm sao biết được tôi đã dốc toàn bộ tinh lực cả đời mình. Công pháp của tôi mặc dù lấy du già làm chính, nhưng trên thực tế, chân như, bát nhã, duy thức, trung quán đều bổ trợ.
Tôi đây xuất gia, bồ đề tâm ở đó. Lập chí xuất gia, mang ý chí phi thường, Gạt hết sang bên, chuyện xưa nay ân ái. Chẳng tạo ngoại duyên, cũng giữ không nhiều chuyện. Đầy đủ âm dương, trong mình thành tự có. Viên mãn công thành, gặp Phật gặp Như Lai. Kiến tính Minh tâm, quay về nơi Cực lạc, Vượt thắng hơn xa, mấy việc vặt gia đình. Tuổi già nhanh tới, nghiệp chướng sẽ càng ghê.
🌟
Hòa thượng Quảng Khâm
Tôi và hòa thượng Quảng Khâm vẫn có một nhân duyên nhỏ. Trước khi chính thức đề cập đến, tôi viết ra đây một câu chuyện tưởng tượng, câu chuyện này như sau: Một chàng trai độc thân trẻ tuổi qua đêm tại một nhà trọ ở vùng ngoại ô vắng vẻ. Nửa đêm. Có một cô gái trẻ đến gõ cửa. Thế là nảy sinh tình một đêm. Sáng sớm ngày hôm sau, bình minh vừa ló rạng, chàng trai với tay sang cô gái nằm gối bên cạnh, phát hiện ra cô đã cứng đờ, tim ngừng đập. Càng đáng sợ hơn là khóe miệng cô chảy máu loang ra cả một mảng lớn trên tấm ga giường.
Chàng trai hoảng sợ, không biết phải làm gì. Chàng trai đi vào phòng tắm, mở nước lạnh xả lên đầu, muốn bình tĩnh lại để nghĩ cách xử lý, rồi trở lại phòng ngủ. Trong nháy mắt, anh sững người ra.
Trên cái giường đó, cô gái đã biến mất, ngay cả tấm trải giường cũng vẫn trắng tinh, một chút vết tích cũng không có, căn bản là như chưa hề có chuyện gì xảy ra.
Thế là, chàng trai bắt đầu đi điều tra, kết quả là: Căn phòng này thực sự có một cô gái trẻ từng bị giết, cái chết rất đáng sợ, tấm trải giường đầy máu. Hơn nữa, chỉ cần có chàng trai độc thân nào ở tại phòng này, cô ta liền xuất hiện.
Vào lúc chập tối, khi chàng trai sắp rời khỏi nhà trọ, lúc phóng xe đi, anh ta ngoái đầu nhìn về cửa sổ của căn phòng nọ. Anh nhìn thấy ở ô cửa sổ có một cô gái đang đứng. Ánh mắt ai oán đó cứ nhìn chằm chằm vào anh ta.
Câu chuyện tôi viết ở trên đầy tính hư huyễn. Câu chuyện nhỏ này chẳng có liên quan chút nào đến hòa thượng Quảng Khâm, nhưng vì sao tôi lại kể ra? Nguyên nhân mà tôi kể ra là mối quan hệ giữa tôi và hòa thượng Quảng Khâm bản chất cũng hư huyễn như vậy.
Lão hòa thượng Quảng Khâm khi còn sống, trong một lần thuyết pháp đã từng nhắc đến tôi: "Những người tu hành chúng ta, chí ít cũng cần tu được giống như Lư Thắng Ngạn, có thể thấu đáo, rõ ràng, minh bạch." Pháp sư Liên Thể đã kể lại với tôi câu nói này. Lão hòa thượng Quảng Khâm nói: "Thông, chính là thông."
Sau khi lão hòa thượng Quảng Khâm viên tịch, có người tặng tôi một tấm ảnh ông khởi linh, trên trời có ánh sáng chiếu lên cỗ quan tài của ông. Có người tặng tôi một bức tượng nhỏ của lão hòa thượng Quảng Khâm, bức tượng của ông nho nhỏ và thật sự trông rất giống ông ấy.
Bây giờ thì, vấn đề lại ở chính bức tượng nhỏ này. Tôi giữ bức tượng này một thời gian, thỉnh thoảng nhìn đến, thấy có quang khí ở trên bức tượng, hình dạng của nó giống như ánh mắt sáng lấp lánh. Bức tượng nhỏ trở thành hai, một bức thì vẫn ngồi yên bất động, một bức khác thì trở thành quang khí, cứ rụt rụt rè rè, căng ra co lại. Tôi cũng không bận tâm.
Có một đêm, tôi cảm thấy toàn bộ từ trường của chiếc giường đều thay đổi, cảm giác về linh khí bao trùm đó hoàn toàn không hề đơn giản, tôi tỉnh dậy. Có một "người ánh sáng" đứng trong phòng tôi. Tôi chăm chú nhìn ông, ông chính là lão hòa thượng Quảng Khâm. Lão hòa thượng niệm Phật một tiếng. "Ông đến rồi ư?" - Tôi hỏi. "Không đến, không đi, không dấu vết!" (Câu nói mà lão hòa thượng đáp lại tôi này chính là một câu kệ lúc lâm chung của ông.)
"Tôi có nhiều việc lắm đây!" "Có dấu vết gì đâu!" - Lão hòa thượng vẫn nói như thế. "Phải làm sao?" - Tôi hỏi. "Chân chất niệm Phật!" - Lão hòa thượng nói. Tôi chú ý đến ánh sáng trên người Quảng lão, ánh sáng này lưu động, tỏa ra bốn xung quanh, cả căn phòng không đèn mà sáng rõ. "Là nhập lưu." "Chính là nhập lưu."
Tôi lại chú ý đến thân thể trong vùng ánh sáng của Quảng lão, căn bản là không khí, chỉ là có đường viền mà không có máu thịt ở trong, xuất hiện ở trạng thái trong suốt. Tôi đột nhiên ngộ ra, tôi nói: "Tự tính không minh." Quảng lão trả lời tôi: "Chính là tự tính không minh."
Tôi lại nói: "Quảng lão không trở lại cõi Ta Bà nữa sao?" Ông đáp: "Hà tất phải để tâm vướng bận!" Tôi hỏi lại lần ba: "Thế là không đến nữa?" Quảng lão đáp: "Xuất thế cùng Phật."
Tôi chớp chớp mắt, "người ánh sáng" này từ mạnh thành yếu, chỉ còn lại một điểm, rồi cũng tiêu tan biến mất. Cả căn phòng tối trở lại, trở về nguyên như ban đầu.
Cảnh tượng này căn bản giống như nằm mơ, hơn nữa chỉ trong vài phút đã kết thúc rồi. Tôi gõ vào đầu mình vài cái, thật sự là một sự huyễn ảo, kể cho người ta nghe, người ta sẽ cười cho. Bạn nói rõ ràng là có, người ta sẽ bảo bạn là đồ thần kinh. Sau đó tôi lại ngủ tiếp.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi nhìn đến bức tượng, quang khí đã biến mất, thật sự là đã đi rồi. Tôi nghĩ, lời nói của hòa thượng Quảng Khâm rất có ý nghĩa. "Nhập lưu" - đây chính là đã hòa nhập vào dòng chảy pháp, nhập vào dòng chảy của Thánh nhân, đây quả vị Tu-đà-hoàn của sự thực tu thực chứng.
"Tự tính không minh" - đây cũng chính là sự thanh tịnh, là diện mạo gốc, là tự tính vốn có, là quả vị Tư-đà-hàm.
" Hà tất phải để tâm vướng bận" - câu nói này cũng khó hiểu, ngẫm một hồi thì là chẳng chần chừ lần lữa, là ý rằng sẽ không trở về, không tái sinh, đây đã là quả vị A-na-hàm rồi.
"Xuất thế cùng Phật" - một Thánh giả thông thường an trụ trong thanh tịnh tịch diệt thì chỉ có vào lúc Phật xuất thế gian thì mới lại đến, tự tính vốn dĩ không tịch sẽ lại giúp đỡ truyền bá Phật pháp, đây chính là đặc tính của quả vị A-la-hán.
Chà! Cuối cùng tôi đã hiểu. Ôi Quảng lão! Quảng lão! Ngài đã nhập vào Tứ Thánh Giới rồi!
15. Hồ sơ tối mật
Ở chỗ Phật Tissa
Tại Phật Quốc vốn có hai hồ sơ tối mật: Thứ nhất: Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Di Lặc. Thứ hai: A Di Đà Phật và Liên Sinh Hoạt Phật. Hai hồ sơ tối mật này đều được lưu giữ tại chỗ của Phật Tissa. Tuy nhiên, một điều rất rõ ràng là hai hồ sơ tối mật này đều đã bị lộ ra.
Trước tiên, chúng ta bàn về hồ sơ tối mật thứ nhất. Phật Tissa là tên của Cổ Phật.
[ ND: Chính là Để sa Phật, Sankrit: Tiwya, Pàli: Tissa. Cũng gọi Đế sa Phật, Đề sa Phật, Bổ sa Phật, Phất sa Phật ]
Hồ sơ thứ nhất này đã được hé lộ ở trong bộ "Bà sa luận", phẩm thứ 177, viết rằng: "Như bộ kinh khắc đã nói, quá khứ có Phật, hiệu là Tissa, hoặc viết là Pusya. Vị Phật đó có hai đệ tử Bồ Tát chăm chỉ tu phạm hạnh. Một người là Thích Ca Mâu Ni, một người là Maitreya, tức Di Lặc. Khi đó, Phật quan sát hai đệ tử xem ai sẽ có được căn tính viên mãn chín muồi trước, thế rồi biết là Từ Thị [ ND: Từ Thị Bồ Tát - tức là Di Lặc Bồ Tát ] sẽ chín muồi trước, có thể an tịch trước rồi sau sẽ chín. Rồi Phật quan sát thêm về chúng sinh hữu tình mà hai vị này đã hóa thân thành xem ai sẽ có căn tính chín muồi trước, thì theo thực tế lại thấy hóa thân của Thích Ca Mâu Ni sẽ chín muồi trước.
Hồ sơ này rất cơ mật, trong hồ sơ này có huyền cơ là:
- Ai thành Phật trước?
- Ai sẽ hóa thân ở cõi Ta Bà trước?
Phật Tissa quan sát, sự tu hành "duy thức đại thần biến" của Di Lặc Bồ Tát đã phát huy công lực rất lớn. Còn huệ lực bát nhã của Phật Thích Ca Mâu Ni thì vẫn chưa bằng Di Lặc Bồ Tát, vì vậy hợp lý mà nói thì nên là Di Lặc Bồ Tát thành Phật trước.
Nhưng, Phật Tissa lại quan sát thấy, duyên phận của Phật Thích Ca Mâu Ni và chúng sinh sẽ chín muồi trước, nhân duyên của Di Lặc Bồ Tát và chúng sinh là sau này, cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni sẽ hóa thân hạ sinh cõi Ta Bà trước, và hơn nữa sẽ ở tại thế giới Ta Bà mà thành Phật.
Tuy nhiên điều khó khăn nằm ở chỗ, rõ ràng là Di Lặc Bồ Tát sẽ thành Phật trước! Hai đệ tử này, ai trước ai sau đã trở thành một vấn đề lớn. Sau đó, Phật Tissa đã dùng năng lực thần thông.
Trên núi, tại Phu Ni Sư đàn, Phật Tissa đã đi vào khám Phệ Lưu Li, ngồi tư thế kiết già, nhập vào "Hỏa giới định" suốt bảy ngày bảy đêm, trải qua trạng thái hỉ lạc vi diệu, uy quang hừng hực.
Phật Thích Ca Mâu Ni đến, Phật Tissa đã dùng uy quang thần thông để gia trì cho Thích Ca Mâu Ni.
Phật Thích Ca Mâu Ni đứng một chân cảm thán [ về Phật Tissa ] một bài kệ: Trong số những bậc đa tài trong trời đất Trong mười phương xứ cung chư thiên thệ Trong những bậc Trượng phu Ngưu vương đại sa môn Tìm khắp mọi nơi chẳng có ai bằng ngài.
[ ND: Với mười đại thần lực, đấng Như Lai tự nhận mình ở địa vị của Ngưu Vương – ý rằng không ai có thể chiến thắng được ngài. Vui lòng xem thêm Đại Kinh Sư Tử Hống – (Kinh Trung Bộ) ]
Chính bởi vì Phật Tissa đã gia trì sức mạnh thần thông cho Thích Ca Mâu Ni, cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt qua chín kiếp, ở trước mặt Di Lặc Bồ Tát, đã đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, cũng thành Phật trước, và cũng hóa thân xuống cõi Ta Bà. Vốn dĩ Di Lặc cần thành Phật trước, nhưng kết quả lại là Phật Thích Ca Mâu Ni vượt lên trước. Đây là một trong những hồ sơ bí mật nhất của Phật Quốc.
Về sau, Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà đã dùng pháp môn bát nhã để quảng độ chúng sinh. Hơn nữa, Ngài đã dự đoán cơ duyên Di Lặc Bồ Tát hạ sinh, dự đoán về long hoa tam hội của Di Lặc thành Phật. Tuy nhiên, căn cứ theo lời dự đoán, thời cơ Di Lặc hạ sinh vẫn còn rất rất xa…
🌟
Cổ Liên Tiên Sinh
Trong những cuốn sách thời kì đầu tôi viết, tôi đã từng nhắc đến một vị Cổ Phật, tôi gọi là Cổ Liên Tiên Sinh. Kì thực, thân phận thực sự của Ngài chính là Phật Tissa.
Tôi (hóa thân Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) cũng nằm trong một bộ hồ sơ tối mật ở chỗ của Phật Tissa. Tuy nhiên, hồ sơ này đã không được xem là tối mật nữa vì đã được công khai ra với thế giới rồi.
Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn chính là hóa thân của Tây phương cực lạc thế giới A Di Đà Phật, kiếp này đổi tên là Liên Hoa Đồng Tử hạ giáng cõi Ta Bà, dùng Mật pháp để quảng độ chúng sinh.
Do vậy, trong những cuốn sách tâm linh của tôi đã nhắc đi nhắc lại những lời phó thác của A Di Đà Phật. Trên thực tế, khi mới có được thiên nhãn, tôi đã mượn "thần túc thông" để vân du khắp huyễn cảnh hư không bao la, huyễn cảnh hư không này chính là thế giới cực lạc. Liên Hoa Đồng Tử chính là A Di Đà Phật, từ lâu đã sẵn sàng bước ra nhận sứ mệnh.
Tuy nhiên vấn đề ở chỗ, sự việc này đúng hay là không đúng đây. Bởi vì kể từ khi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn xuất đạo cho đến nay thì đã gặp phải hết những đợt khảo nghiệm này đến đợt khảo nghiệm khác, tai kiếp trùng trùng, sự phỉ báng nhận được chất cao như núi, nhấn chìm biển cả. Giới Phật giáo không chấp nhận. Xã hội không chấp nhận. Bị xem là nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất. …………….
Lúc này, tại Phật Quốc của Tứ Thánh Giới cũng đã mở lại cuộc thảo luận. Có một nửa các vị Phật chủ trương triệu hồi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn về thiên thượng giới, tiêu hủy hồ sơ tối mật. Một khi đã dùng lửa trời để đốt cháy hết rồi thì xem như sẽ không có chuyện gì nữa.
Nói cách khác là, Liên Sinh Hoạt Phật đi thực tập bất lợi, không có cách nào đạt được mục đích độ hóa chúng sinh, chi bằng triệu hồi trở về. Triệu hồi thì có nghĩa là chết. Hội nghị cơ mật của đại pháp đường chư Phật toàn bộ đều hóa đốt. Làm như vậy thì tất cả sẽ xong xuôi hết.
Ý kiến của chư Phật là muốn nói rằng: "Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn là do chư Phật tiến cử, phái xuống thế giới Ta Bà để độ hóa chúng sinh, nhưng nay ngược lại lại dẫn đến những sự dội ngược từ giới Phật giáo. Đặc biệt là Lư Thắng Ngạn vừa là A Di Đà Phật chuyển thế, chúng sinh niệm danh hiệu của Phật nhưng lại vừa giết Phật, như vậy thì cực kì không tốt. Thế nhân căn bản là những con người không có huệ nhãn, thả rông cái ác, giết hại cái thiện, giữa chính và tà đã hỗn loạn nhập nhằng hết cả. Như vậy thì sẽ cực kì tổn hại đối với thanh danh lẫy lừng của A Di Đà Phật." Vì thế, quyết định triệu hồi.
Duy có Phật Tissa nói như thế này: Để cho Phật Tissa hạ phàm, hóa danh là Cổ Liên Tiên Sinh, gia trì cho công lực của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn, để cho chính ngài vượt qua được cảnh khốn cùng, mau chóng khai ngộ.
Để cho Phật Tissa dẫn dắt, để cho ngài chuyển ra nước ngoài, khiến giới Phật giáo mất đi mục tiêu công kích vào ngài, để cho ngài phát triển mạnh ở nước ngoài, nhờ đó mà giữ được thọ mạng của ngài.
Để Phật Tissa hướng dẫn: "Hỏa giới định." "Thành tựu cầu vồng." "Vô tu du già." "Vô niệm."
Phật Tissa nói: "Nếu như triệu hồi Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn thì chẳng phải là thừa nhận thắng lợi của Thiên Ma sao, sẽ khiến cho [ đối với chúng sinh ] danh dự cao quý của Phật tổn thất nặng nề. Nếu như Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn trong đời sống này có thể chứng được minh - không, chứng vô sinh sinh, chứng thân ngoại hữu thân, chứng vô tu là tu, thì không cần phải triệu hồi nữa."
Sau này, tôi nghiêm túc tinh tấn thực tu: Thực trụ đại thủ ấn. Không lạc đại thủ ấn. Hằng hà đại thủ ấn. Viên mãn đại thủ ấn.
Phật Tissa nhận định tôi (Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn) đã chứng được minh - không, vô sinh sinh, thân ngoại hữu thân, vô tu là tu. Vô minh đã trừ bỏ, phiền não đã cạn tận, đã đắc Vô trụ niết bàn đại thủ ấn, công đức viên mãn.
Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí tôi là: "Hoa Quang Tự Tại Phật." Do vậy, tôi vẫn chưa được triệu hồi. Nhiệm vụ và sứ mệnh của tôi vẫn có thể tiếp tục. Đây chính là hồ sơ tối mật đó!
16. Gián điệp đến từ Phật quốc
Tự ngã định hình
Tôi rất hoan hỉ khi bản thân sống một mình tại một căn phòng nhỏ và rất tối, tự mình minh tưởng một vài sự tình, tôi nghĩ xem bản thân mình là cái gì?
Tôi được chư Phật phái xuống thế giới Ta Bà! Tôi phải thay tên đổi tính để che giấu thân phận! Có một nhiệm vụ đặc biệt! Có quyền lợi và pháp lực lớn vô hạn! Làm việc rất gian khổ! Sự cản trở và chướng ngại vô hạn!
Tôi nghĩ, tôi đây chẳng phải là gián điệp đến từ Phật quốc thì là cái gì? Nhiệm vụ của tôi là khai phá Phật tính của nhân loại, dùng pháp môn đặc biệt để giúp hiển lộ Phật tính của nhân loại, sau đó tiếp ứng họ đến Phật quốc.
Tôi thật sự nghĩ bản thân là gián điệp. Tôi dùng tên hiệu là Liên Hoa Đồng Tử để ẩn núp ở nhân gian, tôi dùng nhãn quang sắc bén để quan sát giới Phật giáo. Tôi tự cảm thấy một gián điệp như mình đây thật sự quá vĩ đại, tôi có ảnh hưởng giống như một anh hùng vô danh của toàn thế giới vậy.
Nhiệm vụ này không phải là để phục vụ cho một đất nước, mà là phục vụ cho toàn nhân loại. Những sự nghiệp mà các bậc hiền nhân trước đây đã làm toàn bộ đều đặt lên đôi vai tôi, chỉ có nhiệm vụ của tôi mới là chân thực, mới là thực tế, các đại sư khác đều quá lơ là rồi.
Người gián điệp tôi đây luôn phải chuẩn bị cho sự hi sinh, công việc rõ ràng là rất gian khổ. Tôi nghĩ, mình đã bị vận mệnh gắn với vai trò là con tốt qua sông, con tốt qua sông thì chỉ có cách tiến lên trước.
[ ND: Trong bàn cờ tướng, khi con tốt/binh đã qua sông thì không thể quay trở lại được ]
🌟
Giáo đoàn hùng mạnh
Các tín đồ Phật giáo ở Đài Loan biểu hiện bên ngoài thì vô cùng hưng thịnh, nhưng trên thực tế thì biến tướng khắp nơi. Phật giáo ở vào đỉnh của thời kì vàng, nhưng an ninh công cộng thì ngày một suy đồi, lòng người bại hoại, việc này là sao đây? Sự lý thú của Phật giáo không còn nằm ở tận gốc rễ, mà chỉ còn ở những biểu hiện bề mặt, giống như trồng cây trên cát, vô cùng nông cạn ngờ nghệch!
Đầy rẫy các "đỉnh núi" Phật giáo, các giáo đoàn Phật giáo cùng tranh giành quyền lực, đã bẻ gãy biểu tượng của Phật giáo, còn những việc đã làm thì vẫn chưa triển khai vào việc hiển lộ Phật tính.
Chúng ta không thể phủi tay phủ nhận các đoàn thể hùng mạnh đang hoằng dương đủ loại hình hoạt động của phương diện Phật pháp. Tuy nhiên, trong con mắt gián điệp là tôi đây, bọn họ vẫn luôn chỉ có chăm chăm thiên về Phật giáo nhân gian. Cái họ làm là pháp nhập thế, hơn nữa lại càng ngày càng nhập thế, tinh thần xuất thế càng ngày càng không còn nữa.
Lấy Sơn Đầu Đại Vương Tinh Vân Đại Sư làm ví dụ: Tổ chức hoành tráng. Tuyên truyền hoành tráng. Phe phái hoành tráng. Tiền tài hoành tráng. Chính trị hoành tráng.
Sự kì vọng gần đây của Tinh Vân Đại Sư là: "Phật Quang Hội thế giới sẽ trở thành một đại xã đoàn số một mang tính quốc tế." Ở đây ám chỉ rằng muốn qua mặt cả hội Rotary, hội Sư Tử, hội Đồng Tế, hội Thanh Thương, v.v… đương nhiên là càng muốn qua mặt hội công đức Từ Tế.
Tinh Vân Đại Sư có thể thành tựu được "Thế giới quốc tế đệ nhất đại xã đoàn", điều này không có gì phải nghi ngờ. Sức mạnh tài chính của Tinh Vân Đại Sư có thể đào tạo được rất nhiều cử nhân Phật học, thạc sĩ Phật học, tiến sĩ Phật học, việc này cũng không có gì phải nghi ngờ. Tinh Vân Đại Sư muốn đạt được giải Nobel Hòa Bình, chịu khó chờ lâu một chút thì cũng có thể đạt được. Tinh Vân Đại Sư đào tạo tổng thống quốc gia, cũng cho thấy năng lực của ông ấy. Tinh Vân Đại Sư xây dựng vương quốc tôn giáo là hoàn toàn có khả năng.
Gián điệp đến từ Phật Quốc tôi đây chỉ muốn bình luận về ông ta là: "Những thứ này đều là lãng phí vô ích." "Tinh Vân Đại Sư là ông rốt cục đã dạy được bao nhiêu đệ tử hiển lộ được Phật tính?"
Không phải là bao nhiêu người đạt được tiến sĩ Phật học! Mà là hiển lộ Phật tính!
Còn bản thân ông thì sao? Ông đã kiến tính hay chưa? Minh tâm hay chưa? Tự chủ sinh tử hay chưa? Không phải là tự mình thành lập vương quốc tôn giáo thì coi mình như là tông phái Phật giáo số một đâu!
🌟
Từ thiện cứu tế thế giới
Tổ chức từ thiện cứu tế thế giới của pháp sư Chứng Nghiêm cũng là một giáo đoàn hùng mạnh. Sự phát triển của giáo đoàn này được gọi là bản sao của nữ tu Theresa của Thiên Chúa Giáo Ấn Độ. Nữ tu Theresa đã đạt được giải Nobel Hòa Bình, pháp sư Chứng Nghiêm cũng đã hết sức nỗ lực theo gót.
Nữ tu Theresa đã dựa vào thanh danh của chính mình để hiệu triệu chúng sinh làm việc thiện, thế nhân đều biết đến tên bà, những việc bà làm là bố thí ba-la-mật.
Những việc pháp sư Chứng Nghiêm làm cũng giống như vậy, chính là bố thí ba-la-mật.
Trong Phật pháp, bố thí ba-la-mật được xếp thứ nhất trong số 10 ba-la-mật, 10 ba-la-mật này cũng phân biệt bởi mười vị Bồ Tát, có mặt trong hư không tạng viện trên mandala Thai Tạng Giới. Tên gọi của 10 ba-la-mật Bồ Tát như sau: • Bố Thí ba-la-mật. • Giới ba-la-mật. • Nhẫn Nhục ba-la-mật. • Tinh Tấn ba-la-mật. • Thiền ba-la-mật. • Bát Nhã ba-la-mật. • Phương Tiện ba-la-mật. • Nguyện ba-la-mật. • Lực ba-la-mật. • Trí ba-la-mật.
Trong bố thí ba-la-mật lại có ba loại: • Bố thí tiền. • Bố thí pháp. • Bố thí sự không sợ hãi.
Gián điệp đến từ Phật quốc là tôi đây đương nhiên biết rõ vị cao linh ở sau lưng của bà ấy. Đối với bốn tham vọng sự nghiệp lớn mà bà theo đuổi, tôi không có gì phản đối. Con đường mà pháp sư Chứng Nghiêm đã đi vẫn là Phật giáo nhân gian, chúng sinh theo bước chân của bà mà đi tế bần cứu khó, đi xây dựng bệnh viện, trường học…
Tôi từng nghe nội dung bài thuyết pháp của pháp sư Chứng Nghiêm, nói về những nỗ lực trong việc bố thí từ thiện, đạo lý làm người, trong số 10 ba-la-mật cũng đã có được nguyện ba-la-mật, lực ba-la-mật, phương tiện ba-la-mật.
Tôi quan sát bà ấy thì thấy thiếu mất thiền ba-la-mật, bát nhã ba-la-mật, trí ba-la-mật, những thứ khác thì cũng tàm tạm.
Nếu như pháp sư Chứng Nghiêm có thể thâm nhập thiền định, có được toàn bộ Phật trí của thập phương Phật, tu trì nội pháp, đắc được thậm thâm bát nhã, tự mình khai mở hiển lộ Như Lai chân trí, rồi dùng pháp tu trì của chính mình để dạy lại cho chúng sinh tu trì thì đây mới là sự khai ngộ "thực tế", không phải là sự khai ngộ "lý thuyết".
Nói thẳng ra, tổ chức từ thiện cứu tế thế giới của pháp sư Chứng Nghiêm đã thành công, bố thí ba-la-mật cũng cực kì thành công, chúng sinh phát thiện tâm, phát bồ đề tâm từ bi hỉ xả, đây đều là những việc vô cùng tốt.
Tuy nhiên, một câu nói quan trọng nhất là: Thế giới Ta Bà này là hư huyễn, không phải là vĩnh viễn. Công đức của Lương Võ Đế năm xưa ở đâu? Do vậy, pháp xuất thế cũng rất quan trọng đó! Nhập thế, xuất thế đều quan trọng như nhau!
Trong mắt tôi, trái đất là một hạt cát. Công đức ở đâu? Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác mới là báu vật vô giá chân chính.
17. Khẩu quyết bí mật về Nhị quán
Bài giảng của Liên Sinh Hoạt Phật Lư Thắng Ngạn trong pháp hội tại Singapore.
Các vị Thượng sư, pháp sư, các vị đồng môn: Good morning [xin chào], và Happy New Year [chúc mừng năm mới] (Vỗ tay)
Vốn dĩ tôi cho rằng buổi sáng hôm nay sẽ chỉ còn lại khoảng mấy trăm người. (Chú thích: pháp hội được tổ chức vào buổi tối hôm trước ở Singapore, hội trường IMM có thể chứa được 20 nghìn người.) Thế nhưng không ngờ đến bây giờ mọi người vẫn ngồi chật kín ở đây. (Vỗ tay) Buổi sáng hôm nay, tôi sẽ kể cho mọi người nghe một chút về những điểm quan trọng khi trong quá khứ tôi tu chuyết hỏa định và cả một số tâm đắc của bản thân tôi về tu học Nội pháp. Bài nói chuyện này của tôi sẽ là tôi nghĩ gì thì nói đấy, tôi nghĩ đến tu như thế nào, tâm yếu, khẩu quyết thế nào thì tôi sẽ nói ra như thế, không có trình tự, cũng không theo một sự quy củ nào cả, hy vọng sau khi các bạn nghe xong, sẽ cảm thấy có được một chút những tâm yếu và khẩu quyết mà Sư Tôn truyền thụ. (Vỗ tay)
🌟
Bốn quán đảnh của Mật giáo
Trang tin của hãng thông tấn Viên Chứng vào thời gian này (tháng 10/1995) đã nhắc đến Nội pháp, ngay trang nhất đã đăng bài Sư Tôn giảng về Nội pháp. Nội pháp kì thực chính là Nhị quán, trong Mật giáo là quán đảnh xếp thứ hai. Xếp thứ nhất chính là Ngoại pháp, xếp thứ hai chính là Nội pháp, xếp thứ ba gọi là Mật pháp, xếp thứ tư gọi là Mật mật pháp. Rốt cục thì bốn quán đảnh này chủ yếu là tu cái gì?
Trước đây tôi đã nói rồi, quán đảnh thứ nhất là tu quán, chính là tu ý niệm của bạn, quán tưởng của bạn, tư duy của bạn, suy nghĩ của bạn, đây gọi là tu quán.
Thứ hai là Nội pháp, tôi cho rằng nó nằm ở việc tu khí. Khí là vô hình, nhưng có thể hiển hiện trên thân thể bạn thì đây gọi là Nội pháp, chủ yếu là nằm ở việc tu khí.
Thứ ba là Mật pháp, chính là pháp kim cang và phạm vi của vô thượng mật, đó là tu dục, là dục niệm. Mỗi người chúng ta đều có dục vọng, chính là nói đến cái dục này.
Thứ tư là Mật mật pháp, tầng quán đảnh thứ tư là tu tính Không. Người học Phật chúng ta đều biết rằng Phật Đà nói về tính Không, do vậy người xuất gia được gọi là tiến nhập Không môn, nghĩa là bạn xuất gia thì chủ yếu là tu tính Không. Những thứ trên thế giới này vì sao gọi là đại viên mãn? Là bởi vì không khí bao trùm tất cả mọi thứ, do vậy gọi là đại viên mãn. Trên đây là bốn quán đảnh của Mật giáo.
Tối hôm qua tôi đã nói rằng Nhị quán là tu khí, bởi vì bạn có thể tu khí được thì mới có thể đi tiếp vào vô thượng mật. Bởi vì trong vô thượng mật, bạn tiếp tục phát triển nâng cao hơn thì mới đạt đến đại viên mãn. Do vậy, Nhị quán là điểm chính của Mật pháp. Tổ Sư của chúng ta đã từng nói như thế này, Tam Bảo của Hiển giáo là Phật - Pháp - Tăng, Tam Bảo của Mật giáo là Khí - Mạch - Điểm. Giữa Hiển và Mật có những điểm khác nhau. Hiển giáo là tu quán, đây là Ngoại pháp của Mật giáo thông thường, đều thuộc về phạm vị của Hiển giáo. Nhưng nội chứng tam muội trong phạm vi của Mật giáo thì khi bạn nội chứng được Mật giáo tam muội rồi thì bạn có thể hiển xuất ra được thần và khí của bản thân. Đây chính là điều khác biệt của tu hành Mật giáo. Ngày hôm nay tôi đặc biệt nói chuyện với mọi người về Nhị quán, về mối quan hệ giữa bản thân Nội pháp, chuyết hỏa, minh điểm, vô lậu.
Còn nhớ vào tháng trước tôi đã đi Hawaii, Sư Tôn đã "hạ hải" [nghĩa là xuống biển bơi] ba ngày. "Hạ hải" không phải là làm kỹ nữ đâu nhé. (cười) [hạ hải trong tiếng Đài Loan còn là từ lóng, có nghĩa là dấn thân làm kỹ nữ, gái điếm]
Tôi xuống biển là để đi swimming, là đi bơi. Có mấy đồng môn đi cùng, mọi người bèn cùng thi, họ thi cái gì? Thi lặn. Thi lặn là làm cái gì? Chính là thi xem ai có thể ở dưới nước được lâu nhất. Mọi người nghĩ xem ai đã thắng? (Có người đáp "Sư Tôn".) Sao lại nói nhỏ thế nhỉ? (Mọi người hét lớn trả lời "Sư Tôn" và vỗ tay.)
Thực sự là Sư Tôn đã chiến thắng (vỗ tay), lặn dưới nước lâu nhất. Đây là vì bạn đã tu Bảo bình khí đến khi đã chứng nghiệm được thì bạn có thể ngừng thở được rất lâu.
🌟
Thở - nguồn gốc của tuổi thọ
Việc thở rất quan trọng. Khi thân thể bạn có khí thì cái thần của bạn sẽ hiển hiện ra, trên mặt người sẽ có ánh sáng, cảm giác của bạn cũng sẽ khác đi. Khi thân thể bạn không có khí, bạn sẽ giống như bánh xe xẹp lép. Không có khí, bạn sẽ cảm thấy cả con người mình mệt mỏi, rất uể oải. Ngày nay, nhìn chung là tu Hiển giáo thì không chắc là bạn sẽ có cảm giác thấy gì, cảm giác cũng không đến được cái gì cả. Còn tu Mật giáo thì chắc chắn sẽ có cảm giác bên trong thân thể có một luồng khí, luồng khí này là không ngừng sinh ra và dùng không hết. Nhị quán chính là tu luồng khí này.
Trong Mật giáo có nói đến rồi, bạn có nhớ trong cuốn "Diêu Trì Kim Mẫu giải thoát chân kinh" có viết: khí từ đâu đi vào thì bạn sẽ thu hồi khí từ chỗ đó. Nếu bạn có thể khiến cho khí của bạn bảo tồn được mà không thoát ra ngoài, không mất đi, làm cho thần và khí bên trong thân thể của chính bạn không rò rỉ ra ngoài, hoàn toàn bảo trì được thì cũng chính là cách để kéo dài tuổi thọ, làm cơ thể chắc khỏe. Hơn nữa, trong Mật giáo dạy bạn tu Nội pháp, chính là dạy bạn cách sống lâu khỏe mạnh. Bạn có thể sống lâu, bạn có thể giữ chắc được tinh, khí, thần của cơ thể chính mình, thì bạn có thể sống lâu khỏe mạnh, có thể tự do làm gì tùy ý, có thể lợi dụng thân thể xương thịt này để tu hành cho tốt, không chỉ là tu tính mà còn cả tu mệnh, gọi là "tính mệnh song tu". (vỗ tay)
🌟
Tu trì vô lậu và khí, mạch, minh điểm
Vậy thì, thế nào là không lậu? Làm sao để không lậu? Chúng ta ngày nào cũng đều lậu cả, sự lậu này có cái là hữu hình, có cái là vô hình. Trên phương diện vô hình, bạn phiền não thì chính là có lậu, bạn nghĩ quá nhiều cũng chính là lậu, suy nghĩ không thanh tịnh cũng là lậu, bạn toát mồ hôi, bài tiết cũng chính là lậu.
Tôi nói như vậy, bạn thử chú ý đến bản thân bạn, thân tâm bạn nếu như có lậu, bao gồm thân lậu, tâm lậu, khẩu lậu, ý lậu, suy nghĩ cũng sẽ có lậu. Vậy thì trong nội pháp của Nhị quán, bạn cần bảo trì cho thân tâm chính mình vô lậu, phải bảo trì được rất tốt, thân khẩu ý của bạn đều cần phải vô lậu, làm được như vậy thì tinh, khí, thần của bạn mới có thể vĩnh viễn được giữ chặt. Khi bạn luyện tập Nội pháp sẽ sản sinh ra quang minh, có thể phóng tỏa ánh sáng mạnh mẽ, thậm chí là dùng ánh sáng trên thân bạn để mà đi gặp và tương ứng với ánh sáng của vũ trụ.
Người tu hành đôi khi sẽ tịnh khẩu, nguyên nhân của việc tịnh khẩu là để bế khí. Mọi người thấy Sư Tôn nói rất nhiều, người nói nhiều rất khó tránh khỏi việc bị lậu, nhưng Sư Tôn khi nào nên nói thì mới nói, khi không nên nói thì không nói. Bình thường tôi nói những điều có ý nghĩa, những điều không có ý nghĩa tôi không nói. Nói quá nhiều cũng là một dạng rò rỉ khí, đây là rò rỉ từ miệng.
Vậy còn sự rò rỉ từ thân, mọi người đều biết, nam tinh nữ huyết, đây chính là lậu. Nếu tu hành Nhị quán đến pháp vô lậu thì phụ nữ sẽ không còn chảy máu, đàn ông thì sẽ không còn xuất tinh, những điều này chúng ta gọi là Bạch bồ đề và Hồng bồ đề. Bạch bồ đề chính là minh điểm, Hồng bồ đề cũng là minh điểm.
Chúng ta làm một thực nghiệm, dùng ống hút để hút đầy nước bên trong, sau đó từ từ ấn giữ một đầu, ấn chặt, ấn một đầu ống hút, thế là xong, bên trong vẫn còn nước, không hề chuyển động, đây là một phương pháp. Do vậy, trong "Tát già lục thế biến" có nhắc đến rằng, đầu của bạn ấn ép xuống họng, ép xuống, thì cũng giống như bóp chặt khí quản lại, đây chính là một trong những pháp vô lậu của "Tát già lục thế biến". Đây chính là một khẩu quyết đó! Ấn vào điểm họng, lúc này chính là ấn giữ đầu trên của ống trung mạch, bạn cứ giữ được như vậy, giữ vững được minh điểm, đây chính là khẩu quyết rất quan trọng.
Sau đó, bạn cần đẩy nước lên trên, đẩy lên trên. Bạn biết cái máy bơm ở nông thôn ngày xưa đó! Bơm cái này để mồi nước, ấn xuống thế này, thì nước sẽ nâng lên trên, nước dâng lên rồi thì sẽ từ cái miệng này chảy ra ngoài. Nhưng Sư Tôn thì thỉnh thoảng làm thế này, thân thể hơi vặn một chút, phần dưới bất động, chỉ có phần trên cử động, sau đó đầu quay trái phải (Sư Tôn thị phạm). Làm như thế này chính là có tác dụng bơm, chính là ép cho nước ở phía dưới đi lên trên, đây cũng là khẩu quyết.
Khẩu quyết này vô cùng quan trọng, thế là tôi đã dạy các bạn hai khẩu quyết rồi: khẩu quyết thứ nhất là bạn ấn giữ ống mạch, nước có thể dâng lên mà không rò rỉ mất; khẩu quyết thứ hai là, không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phải đẩy lên trên, làm như vậy có thể đưa minh điểm trong trung mạch di chuyển thẳng lên trên, đây là điểm thứ hai trong "Tát già lục thế biến", là ý nghĩa số một trong pháp nâng lên.
Thân thể con người chúng ta có lậu, rò rỉ hết thì tức là chết, đến cuối cùng thì chẳng còn gì nữa, chính là đi đời. Nếu bạn có thể giữ vững tinh thần khí, hơn nữa còn có thể làm nó thăng hoa, biến thành khói, biến thành nhiệt, sau đó lại tập trung lại, lại cô đặc lại, lại hóa thành một điểm của thân thể… Khi tu hành, trong quá trình tu pháp, Nhị quán là rất bí mật. Bởi vì bản thân có cách nâng lên thì mới có thể giữ vững được. Tổ sư từng nói về "giáng" - là rơi xuống, "đề" - là nâng lên, "trì" - chính là có thể giữ điểm đó ở trên cao, "tán" - nghĩa là phân bố khắp toàn thân, đây chính là "giáng, đề, trì, tán".
Trước đây khi học pháp này, tôi đều lấy toàn bộ tiền lương hàng tháng của mình cúng dường cho thầy của mình. Thượng sư sẽ luôn dạy bạn khẩu quyết quan trọng, điểm quan trọng của nó nằm ở đâu, thân thể chuyển động như thế nào, ý niệm cần quan sát thế nào. Chuyển động của thân thể chính là kim cang quyền, ý niệm cần quan sát thế nào, còn có cả chính bạn cần trải nghiệm thế nào, đi nghiên cứu đạo lý của bản thân sự trải nghiệm đó, cái này đều vô cùng quan trọng. Trước đây, khi sư phụ dạy chúng tôi đã dạy hết sức tỉ mỉ, vô cùng tường tận. Ví dụ như minh điểm đi đến đâu thì sẽ cần phải làm gì. Minh điểm chạy đến chỗ nào thì sẽ cần phải làm thế nào. Cần phối hợp với ngoại công kim cang quyền của bạn, kim cang quyền cùng với minh điểm của bạn, một cái là bên ngoài, một cái là bên trong, hai thứ cùng phối hợp với nhau thì bạn có thể khiến minh điểm sản sinh ra một loại tác dụng, loại tác dụng này chính là có thể khiến thân thể của bạn có được lợi ích rất tốt.
🌟
Nhị quán Nội pháp – nới lỏng năm luân xa
Trước đây, sư phụ đã dạy chúng tôi rất tỉ mỉ, rất cụ thể. Thầy nói, việc hít thở của con người thông thường thì chỉ hít thở ở mũi và họng mà thôi. Tuy nhiên, việc hít thở của người tu Nội pháp chúng ta thì nhất định cần phải hít thở đến đan điền, hít thở chắc chắn cần phải đến đan điền. Sư phụ tôi nói, đan điền này vẫn chỉ được coi như là điểm trung gian thôi, nay việc hít thở của các trò là cần phải hít thở xuống đến tận gót chân, xuống đến tận đầu ngón chân của các trò. Điều mà sư phụ tôi dạy chính là khẩu quyết. Bạn không làm được như thế thì phải làm sao? Thì dùng suy ý để dẫn dắt hơi thở xuống đến tận đầu ngón chân.
Mọi người đều biết, việc hít thở của Nội pháp cần đi qua phổi, đi qua trung mạch, mạch trái phải, xuống đến tận đan điền. Có hại gì đâu khi bạn dẫn hơi thở xuống đến tận mật luân, có thể làm được không? Bạn dẫn khí hơi thở xuống đến tận đầu ngón chân, có thể làm được không? Đây là một khẩu quyết, giờ thì tôi đã lại dạy cho bạn rất nhiều khẩu quyết rồi đó!
Chúng sinh thông thường hít thở chỉ ở giữa vùng mũi và họng, sự hít thở của hành giả phải đến tận gót chân của mình, đương nhiên sẽ bao gồm cả mật luân, hạ đan điền. Điều này sẽ giúp cho toàn thân bạn đâu đâu cũng đều có khí lực, có khí và có lực. Hôm nay bạn hãy học cách hít thở trước, dẫn hơi thở của bạn đến mật luân, đến hạ đan điền, đến gót chân. Bạn có thể vận chuyển khí đến gót chân của bạn thì đã thành công một nửa rồi. Việc hít thở của bạn chỉ ở mũi và họng thì bạn cũng không khác gì con người thế gian, cuối cùng cũng chết, cũng đi đời, sẽ chẳng có thành tựu gì cả. Tu Nội pháp hoàn toàn nằm ở hơi thở. Lúc trước tôi nói là toàn bộ hơi thở chỉ xuống đến hạ đan điền, hôm nay tôi nói với mọi người thêm một khẩu quyết rất quan trọng, đó là đưa hơi thở của bạn đến mật luân, đến gót chân.
Vẫn có nhiều người nói rằng “nhưng đệ tử bị viêm khí quản, hệ thống tiêu hóa của tôi không tốt, đệ tử hít thở không thông suốt”, nếu vậy thì bạn nhất định càng cần luyện tập hơi thở cho tốt. (vỗ tay) Sau này mọi người đều cần phải học kim cang quyền, kim cang quyền là cái gì? Kim cang quyền là làm mềm, thả lỏng toàn bộ vi huyết quản và dây thần kinh, khí mạch, khí huyết của thân thể và tất cả những nơi khí huyết di chuyển tới suốt từ đầu đến gót chân, khiến cho tất cả đều thông. (vỗ tay)
Tôi đã từng kể, có ba ông lão đã rất già đến hơn trăm tuổi đang làm ruộng ngoài đồng. Có một người tu hành đi đến, cảm thấy rất kỳ lạ, vì sao ba ông lão nào có thể sống lâu đến vậy? Là nguyên nhân gì? Bèn hỏi một ông lão, vì sao ông lại sống lâu được như thế? Ông trả lời rất hay, bởi vì bà vợ của tôi rất xấu xí. (vỗ tay) Ồ lạ nhỉ, nói là vợ rất xấu xí thì mọi người đều vỗ tay, lẽ nào vợ của các anh đều rất xấu sao? Ha ha ha! (Sư Tôn cười)
Vợ xấu, do vậy ông ta mới sống lâu, là vì sao? Bởi vì ông ta lậu ít. Vợ của bạn quá xinh đẹp, bạn thấy đẹp thì trong lòng thích thú - anh hùng bản sắc - anh hùng vốn dĩ là háo sắc. Vợ anh mà xinh đẹp thì anh sẽ lậu nhiều hơn người khác, làm sao anh có thể sống lâu được đây? Bởi vậy, ông lão này nói bởi vì bà vợ của ông rất xấu, nhìn đã thấy không ưa nổi, không thể chủ động đến gần thân mật được, thế nên lậu ít hơn người khác, nên ông lão sống lâu. Có lý, điều này chính là vô lậu, bởi vì bạn vô lậu nên mới sống lâu.
Người tu hành lại đi hỏi ông lão thứ hai xem vì sao sống được đến hơn trăm tuổi. Ông lão thứ hai nói, mỗi buổi tối khi đi ngủ, tôi đều để hở mũi ở bên ngoài chăn, hít thở rất dễ dàng. Đây chính là nói về sự thông khí, khí của bạn có thể thông suốt thì sẽ sống lâu, khí của bạn không thông thì coi như xong. Hôm nay tôi nói cho mọi người biết, khí vào, khí ra đều thông suốt thì thân thể sẽ khỏe mạnh. Nay nếu khí vào khí ra của bạn không tốt thì sẽ có bệnh, khí bị chặn lại. Nếu khí của bạn không thể vào, chỉ có khí đi ra mà không có khí đi vào, thì sớm muộn gì bạn cũng sẽ chết rất nhanh. Do vậy, khí vào - khí ra chính là một phương pháp trường sinh, bạn đã hiểu chưa?
Khí thông thì mọi thứ đều thuận, khí không thông thì sẽ dừng lại, tắc nghẽn, trăm bệnh phát ra, trong Đông y gọi là "khí huyết bất thông". Bạn đau ở chỗ nào thì đảm bảo ở chỗ đó khí huyết không thông. Chỗ nào có bệnh thì chỗ đó chính là khí huyết không thông. Nếu khí của bạn đều thông thuận thì mắt sẽ sáng. Nếu tai không bị nghẽn thì tai bạn thông, mũi bạn hít thở rất trơn tru thì mũi bạn thông. Các cơ quan bài tiết, cơ quan tiêu hóa, toàn thể "câu lạc bộ" ngũ tạng đều vô cùng trơn tru thì chính là thông khí, thông khí thì sẽ sống lâu.
Người tu hành hỏi ông lão thứ ba: "Làm sao ông sống lâu vậy?" Ông lão thứ ba trả lời: "Hàng ngày tôi đều “exercise”, đều vận động." Tôi nói cho mọi người biết, luyện tập này là kim cang quyền. Hàng ngày bạn cần vận động, thả lỏng năm luân xa của bạn, các luân xa trên thân đều cần mềm và lỏng, tất cả khí huyết cực kì thịnh vượng, thì sẽ giữ được sự vô lậu của bản thân, đây là cách sống lâu khỏe mạnh.
Hôm nay tôi lại nói với mọi người về nền tảng của tu Nội pháp. Thứ nhất, nhất định cần vô lậu. Thứ hai, nhất định cần thông khí. Thứ ba, cần thả lỏng năm luân xa, toàn bộ mạch luân trên thân đều được thả lỏng, đều được làm mềm. Khi cần cứng thì cứng, cứng rồi thì rất cương chắc, khi cần mềm thì mềm, giữa mềm và cứng cần điều chỉnh vừa đủ, đây chính là cơ sở của Nội pháp. Trong nội pháp, việc điều chỉnh thân thể bạn chính là làm như thế này, bạn không được lười đâu!
🌟
Luyện kim cang quyền
Các bạn biết rằng mỗi buổi sáng Sư Tôn đều đánh kim cang quyền. Khi ở khách sạn, sáng sớm các bạn đừng có đến gõ cửa phòng Sư Tôn, bởi vì khi đó tôi đang bận đánh kim cang quyền, lúc đó mà bạn bước vào phòng thì nắm đấm này của tôi tung ra một cái là đấm trúng mũi bạn bẹp dí luôn đó. (mọi người cười)
Đồng thời, trong lúc luyện kim cang quyền, trong phòng sẽ phát ra tiếng binh binh bang bang. Khi tôi đánh kim cang quyền, các bạn đừng khởi tâm nghi ngờ Sư Tôn đang làm cái gì thế nhỉ? Vì sao trong phòng lại có âm thanh vọng ra như thế? Cửa lại còn đóng chặt, các bạn cũng đừng tìm cách nhìn trộm đấy nhé! Bởi vì khi Sư Tôn đánh kim cang quyền thì tôi không mặc gì hết! Do vậy thôi thích ở một mình một phòng, vì tôi có thói quen đánh kim cang quyền, nếu có thị giả ở cùng thì không tiện lắm, nên tôi ở một mình một phòng.
Vì sao cần cởi hết quần áo để đánh kim cang quyền? Bởi vì khí trên thân thể tôi cần đến được tận bề mặt của da, nếu tôi có mặc quần áo hay đeo thêm đồ gì trên người, hoặc đi giày dép, thì khi khí đi đến sẽ bị chặn lại! Khí sẽ bị nghẽn lại. Do vậy khi bạn luyện kim cang quyền, tốt nhất là "trần như nhộng". (mọi người cười) Thế nhưng bạn đừng có đi ra ngoài đường mà luyện kim cang quyền đấy nhé (cười), hoặc ở những nơi công cộng mà luyện kim cang quyền thì không được, bạn sẽ bị bắt đi đó.
Bởi vì quần áo sẽ chặn sự lưu thông của những lỗ khí trên da, hơn nữa đeo thắt lưng cũng sẽ ảnh hưởng đến sự lưu thông của khí. Nếu như toàn thân bạn đều trần trụi thì khí có thể tự do ra vào, hít thở qua da. Người tu hành chúng ta tu đến cuối cùng thì sẽ đều như vậy, việc hít thở không còn chỉ là ở mũi, cũng không phải hít thở từ miệng, mà sẽ trở thành hít thở từ bề mặt da đó! Khí từ lỗ chân lông thoát ra, cũng có thể từ lỗ chân lông mà đi vào, điều này rất khác biệt! Đến lúc này thì việc hít thở của chúng ta đã rất vi tế rồi, vi tế đến mức gần giống như thai tức, hơi thở mạnh phát ra có thể biến thành cơn cuồng phong, “super wind”, bạn thật sự có thể thở mạnh ra, biến thành cơn cuồng phong “super wind”, còn hít vào thì trở thành thai tức.
[Thai tức, trong Đạo giáo là phép hít thở như còn ở trong bào thai mẹ.]
🌟
Bảo bình khí và bất lậu minh điểm
Tôi dạy mọi người tu Bảo bình khí là dạy mọi người trước tiên cần hiểu cách giữ khí và tán khí, luyện tập cho khí của bạn ở khắp toàn thân, đến đầu ngón chân, đầu ngón tay, bất kì chỗ nào cũng đều có khí chạy đến. Sau đó lại dạy bạn về pháp vô lậu! Theo quy tắc mà làm thì bạn sẽ không được ham dục, dục niệm quá đà thì cũng giống như vợ quá xinh đẹp vậy! Hoặc chồng quá đẹp trai vậy! Đều không phải là điều tốt. Cần xấp xỉ ở mức như Sư Tôn thì tốt hơn chút (mọi người vỗ tay), Sư Tôn thì thấp thấp, lại có phần hơi béo, ngũ quan thì cũng bình thường, diện mạo cũng không phải là quá xuất chúng. Có rất nhiều phụ nữ xinh đẹp xuất chúng, rất nhiều đàn ông cao lớn đẹp trai, những người này đều cần mua bảo hiểm, bởi vì họ đều không được an toàn, không an toàn vì sẽ khiến rất nhiều người khởi lên suy nghĩ không tốt. Đối với anh ta cô ta cũng không tốt! Mà đối với người khác cũng không tốt đâu!
Khẩu quyết tu hành căn bản chính là ở đây, bạn tuyệt đối không được tham dục. Bạn tham dục thì chính là lậu, đây là sự rò rỉ, trong thời gian ngắn thì không có can hệ gì, nhưng về lâu dài thì bạn sẽ mắc bệnh đó! Mắc bệnh gì ư? Vốn dĩ tóc bạn đen sẽ trở thành tóc trắng, tóc sẽ trở nên bạc, sẽ chảy nước mắt không vì lý do gì cả, cũng sẽ chảy nước mũi nữa. Không chỉ như vậy, răng cũng lung lay, da sẽ mất đi vẻ sáng bóng. Nếu như bạn quá chìm đắm vào tình dục thì xung quanh mắt bạn cũng sẽ trở thành như gấu trúc, sẽ có hai quầng mắt đen, không những ở trên lậu mà ở dưới cũng lậu. Thân thể còn toát mồ hôi, đi toilet, đi tiểu tiện, sẽ "đi tiểu như nước lạnh". "Đi tiểu như nước lạnh" là cái gì? Khi tiểu tiện ta thường run một tí, giống như là sợ lạnh, run khi lạnh, có nghĩ là lạnh mà run lên, vô hình trung, thân thể bạn sẽ yếu đi.
Tôi đọc một bài kệ: Mỹ nữ eo thon đeo bảo kiếm Không chém thánh hiền chém phàm phu Mặc dù chưa thấy đầu rơi xuống Xương tủy đã khô tự bao giờ.
Phải thật chú ý đó! Đôi khi tôi xem tướng, có người vợ rất xinh đẹp, giống như Tiên trời mỹ nữ, thân hình thì như trái hồ lô, chà! Rất đẹp! Rồi nhìn sang anh chồng ở bên cạnh thì, chà! Giống như que tre vậy, còn khô héo nữa. Vợ xinh đẹp quá mà! Con mắt vừa liếc một cái! Thì cũng như ánh điện lóe lên! Cái eo thì cong mềm như cành liễu! Rất mềm mại! Còn anh chồng thì, chà! Giống như cọng rơm vậy, cũng uốn éo, nhưng mà giống như sắp ngã nhào rồi, đã khô héo hết rồi!
Do vậy, cần mau chóng tu Nội pháp. Trong Nội pháp có vô lậu, có chuyết hỏa, có minh điểm, vô lậu chính là tinh chất của minh điểm và chuyết hỏa. Nhờ có vô lậu nên mới có khí lực để nâng chuyết hỏa lên, nhờ có vô lậu mà minh điểm mới có thể bảo tồn được! Mới có thể vận chuyển được! Có chuyết hỏa thì mới có thể đốt cháy được minh điểm. Có minh điểm mới có thể phóng quang được! Ba thứ này đều có liên quan đến nhau.
Bạn sa đà quá độ vào tình dục, lậu quá nhiều, chuyết hỏa làm sao nâng lên được? Bạn không có tài nguyên, không có minh điểm, nguồn tài nguyên của bạn không tốt thì chuyết hỏa không nổi lên được, minh điểm không cứng chắc được! Minh điểm chính là tinh, chuyết hỏa chính là nhiệt độ thân thể của bạn, là lửa của sinh mệnh. Vô lậu chính là khí mà bạn tu hành đó! Giữa khí, mạch, minh điểm thì khí chính là sức mạnh thân thể của bạn, mạch chính là các đường dẫn tinh của bạn, chính là mạng lưới giao thông, là các con đường cao tốc, chính là “highway”, minh điểm chính là nguyên tố sống của thân bạn.
Hôm nay tôi nói với mọi người về nội dung Nhị quán của Mật giáo, là ở sự tụ khí của sinh mệnh bên trong thân thể bạn, và tập hợp tất cả các dây mạch thần kinh trong thân thể bạn, trung mạch, mạch trái mạch phải, tất cả các ống giao thông của mạch, minh điểm chính là vật chất bài tiết của toàn thân, chính là nguyên tố tinh khí của bạn, ba thứ này liên quan đến nhau, chính là yếu tố quan trọng nhất của nội pháp.
Khí của bạn chính là nhờ việc tu tốt pháp bảo bình khí, khí sẽ sản sinh ra lực và sự cứng chắc, khi bạn có thể nín thở, dùng ý nghĩ để đưa khí của bạn đến tận đỉnh đầu, đến gót chân, đến mười đầu ngón tay, khí đầy ắp toàn thân, bao gồm cả lớp da của bạn cũng có khí. Đợi đến khi bạn dùng hết phần khí này rồi thì sẽ xả hết khí thải này ra, rồi lại hít vào không khí tươi mới để sử dụng, đây chính là cách sống lâu khỏe mạnh.
Bạn hiểu được "Tát già lục thế biến", vận dụng chúng, thì có thể giữ vững được minh điểm, có thể nén xuống yết hầu, có thể làm động tác lắc mình, có thể nâng minh điểm lên, khi minh điểm hạ xuống thì bạn lại nâng lên, lại hạ xuống, lại nâng lên, lại hạ xuống, lại nâng lên. Dùng nội hỏa, chuyết hỏa của bạn để đốt cháy minh điểm, hóa chúng thành khí của toàn thân, rồi lại hóa thành hạt xá lợi, rồi từ các hạt xá lợi mà phóng xuất ánh sáng, như vậy bạn có thể tức thân thành Phật, thành tựu được quả vị của Mật giáo. (vỗ tay)
Tôi nhắc nhở mọi người về sáu khẩu quyết:
- Nhật nguyệt triều thiên. [hai mắt nhìn lên trên]
- Đầu lưỡi chạm vào hàm trên.
- Nén cổ họng.
- Bụng ép về phía lưng.
- Co chặt người lại.
- Thượng hành khí thoát ra hết.
"Tát già lục thế biến" chính là sáu khẩu quyết của pháp nâng. Thực hiện những điều này có thể chứng đắc vô lậu, nhưng pháp này không thể truyền lung tung được.
Sư phụ của tôi là Liễu Minh Hòa Thượng, Sakya Chứng Không, Đại Bảo Pháp Vương thứ 16 Karmapa, Thubten Dhargye Rinpoche. Thubten Dhargye Rinpoche khi dạy những thứ này cho một đệ tử nào đó thì cần phải xem nhân phẩm người đó rồi mới dạy, bởi vì sau khi thầy dạy cho pháp này rồi thì anh ta có thể lấy 108 bà vợ. Pháp vô lậu rất quý giá, tu được vô lậu thì anh ta sẽ không còn là một phàm phu bình thường nữa, bởi vì phàm phu thì đều lậu cả! Sau khi anh ta học được công phu này rồi, mà nếu như anh ta có tâm thuật bất hảo thì sẽ là một người đàn ông "thực thụ" trong số những người đàn ông.
Sau khi học được công phu Nội pháp này của Mật giáo rồi, Thubten Dhargye Rinpoche thường nói, trên phương diện thời gian vô hình, muốn lâu thì lâu, muốn ngắn thì ngắn. Trên phương diện hữu hình, cũng là muốn lâu thì lâu, muốn ngắn thì ngắn. Như vậy mà nói thì pháp vô lậu này, tôi cần phải đặc biệt chỉ một dạy một, truyền dạy qua lời nói và tai nghe (khẩu truyền). Chắc chắc bản thân bạn phải là một người có tâm cực kì tốt, phẩm tính cực kì đoan chính. Bạn không được như ong bướm thích hoa, đến đâu cũng như bướm tìm hoa, hôm nay bông này, ngày mai bông khác, mỗi ngày mấy bông. Do vậy, muốn truyền dạy pháp này không thể công khai ở đây mà nói cho mọi người được. "Tát già lục thế biến" không thể tùy tiện công khai dạy mọi người được. Nhưng trước tiên, bạn cần kéo chuyết hỏa, trước tiên bạn cần tiết dục, hạ những ham muốn tính dục của mình xuống mức thấp nhất, đến khi điều này trở thành bình thường thì có thể bắt đầu tu được rồi.
🌟
Pháp chuyết hỏa [lửa tam muội]
Tôi đã truyền pháp chuyết hỏa rồi, cũng đã nói về khẩu quyết dùng hoàn toàn hơi thở, quán tưởng một nửa chữ Phạn "Ah", phương pháp dùng hoàn toàn hơi thở, để làm cho bụng nóng lên trước, sau đó từ nhiệt này biến thành hỏa, từ hỏa lại hóa thành quang. Bởi vì nhiệt này biến thành hỏa, nhờ hỏa lại nâng minh điểm lên, rồi lại hòa tan minh điểm, thế rồi hỏa này có thể dâng đến hoa sen nghìn cánh ở đây. Bồ đề tâm nguyệt dịch của hoa sen nghìn cánh hóa thành nước, chính là một nửa còn lại của chữ "Ah". Hai thứ lửa và nước ở tâm luân kết thành một chữ Ah hoàn chỉnh. Rồi lại nhờ sau khi chữ Ah này tan ra, sau khi tan lỏng ra, sẽ sản sinh ra một thứ ánh sáng viên mãn hòa lẫn thủy hỏa. Có thể nói như thế này là đã thành tựu quả vị chuyết hỏa Nội pháp Nhị quán rồi, cũng có thể nói là đã nội chứng Mật giáo tam muội.
Tôi đã giảng giải về pháp chuyết hỏa, mọi người có thể đọc thật cẩn thận, thật cẩn thận để xem xem tu pháp chuyết hỏa như thế nào. Đầu tiên bạn hãy học tu pháp chuyết hỏa cho tốt, dục vọng giảm xuống hết mức có thể, bản thân mỗi ngày đều cần vận động, nghĩa là đánh kim cang quyền, thông khí, vô lậu, bạn làm được như vậy thì chuyết hỏa sẽ rất dễ nhen lên.
Rốt cục đến lúc nào thì chuyết hỏa mới được xem là đã nhen lên? Bởi vì cũng có thể nói rằng chuyết hỏa, có lúc thì dùng ngọn lửa lớn mãnh liệt, có khi thì dùng ngọn lửa nhỏ và chậm, giữa hai kiểu ngọn lửa này cần có sự điều hòa vừa đủ. Ngọn lửa nhỏ thì hơi thở mảnh, chậm, dài, ngọn lửa lớn thì hơi thở thô, nhanh, ngắn. Đây chính là nhịp điệu hơi thở mà lúc trước Thượng sư Liên Huyên có nói đến, thuộc về việc phóng hơi thở, thuộc về kiểu hơi thở thô, nhanh và ngắn, cách thở này có thể gọi là "võ hỏa". Thế nhưng người tu pháp chúng ta đầu tiên cần dùng lửa nhỏ, còn gọi là "văn hỏa", sau đó, đợi đến khi lửa sắp nhen lên rồi thì có thể dùng lửa nhanh khỏe hơn, mãnh liệt hơn, rồi dùng gió nhanh để thổi mạnh, thổi bùng lên chuyết hỏa này.
"Văn hỏa", "võ hỏa" này cần điều tiết sao cho khéo léo. Nếu như bạn dùng toàn bộ là võ hỏa thì mắt sẽ đỏ lên, đầu sẽ đau, mũi sẽ rất khô, miệng khô lưỡi đắng, toàn thân sẽ bồn chồn bất an, sẽ sinh bệnh. Răng cũng sẽ đau và sưng viêm lên. Thường xuyên dùng "võ hỏa" thì sẽ có hiện tượng này.
Do vậy, Sư Tôn chủ trương là bình thường hãy dùng hơi thở mảnh, chậm, dài, cứ liên tục điều tiết đến khi khí của bạn đã đủ rồi, lửa của bạn đã được nhen lên, thì lúc đó mới dùng "võ hỏa" mạnh hơn để đốt cháy lên, sẽ rất nhanh làm cho chuyết hỏa dâng lên. Phương pháp này cũng là một khẩu quyết rất quan trọng đối với các bạn, rất quan trọng, cực kì quan trọng.
Trong chuyết hỏa định, tôi còn nói về việc bạn cần chạm đầu lưỡi lên hàm trên, còn cần phải nâng hậu môn, đây là để làm thông trung mạch. Tôi còn nói rằng cần làm sao để kéo thẳng trung mạch của bạn, trung mạch của bạn cần phải thẳng, từ đỉnh luân cho đến mật luân, trung mạch phải rất thẳng, rất thông, rất mở rộng, cần để cho tất cả khí có thể vận chuyển trong trung mạch, như vậy sẽ tương đối dễ nâng chuyết hỏa. Một khi khí của bạn đủ, chuyết hỏa sẽ rất dễ nâng lên, nếu khí của bạn không đủ thì chuyết hỏa sẽ rất khó nâng lên, sẽ rất khó sản sinh ra tác dụng lên thân thể bạn.
🌟
Bí mật thành công - vô lậu, chuyết hỏa, minh điểm
Bí mật thành công của Nội pháp chính là vô lậu, chuyết hỏa và minh điểm. Minh điểm cần phải hiểu được về giáng, đề, trì, tán. Bồ đề tâm nguyệt dịch này hạ xuống, chuyết hỏa nâng lên, kết hợp tại tâm luân để khai mở tâm luân, phóng xuất ánh sáng. Bí quyết để chuyết hỏa nâng lên là dùng hơi thở hoàn toàn, dùng hoàn toàn sức mạnh của việc hít thở gió, sử dụng suy nghĩ của bạn, tập trung tinh thần, dùng hai nửa của chữ "Ah", lợi dụng sự thả lỏng của mạch luân nhờ tập kim cang quyền, để làm cho khí được thông suốt, tất cả đều là bí quyết thành công.
Công phu vận khí đã đủ, việc tu Bảo bình khí đã đủ, thì có thể tu chuyết hỏa. Trong "Mật tông đạo thứ đệ quảng luận" có nói đến rốt cục thì có cần tu Sơ quán trước không? Hay là tu Nhị quán trước? Hay là cần tu khí trước rồi mới lại tu quán? Hay là tu cả hai thứ cùng lúc? Tổ sư dòng Mũ Vàng ngài Tsongkhapa cũng nói rằng ở đây không có quy định chắc chắn. Sơ quán và Nhị quán có thể tu đồng thời. Sơ quán và Nhị quán, có người tu Ngoại pháp thành tựu trước rồi mới tu Nội pháp, có người thì tu Nội pháp trước rồi mới tu Ngoại pháp, hoặc là tu cả hai cùng lúc, đều có thể được, tùy theo nhân duyên của mỗi người mà tu hành.
Tôi cũng yêu cầu mọi người rằng, khi ở Seattle Lôi Tạng Tự tôi đã truyền phương pháp chuyết hỏa định, mọi người sau khi trở về thì băng ghi hình chuyết hỏa định mà mỗi người thỉnh về hãy đem ra xem cho cẩn thận, xem tôi đã giải thích phương pháp chuyết hỏa định như thế nào. Cái này thuộc về Nội pháp. Khi bạn đã tu thành công chuyết hỏa định rồi, khi đã nâng được chuyết hỏa lên, bạn tự nhận định mình đã nâng được chuyết hỏa lên rồi, thì cần tu pháp vô lậu. Trước tiên để Sư Tôn xem xét xem bạn rốt cục có phải là Anh Trư hay không phải Anh Trư [Trư Bát Giới]. Nhất định cần phải xem xét. Nếu như tôi không xem xét, sau khi bạn học xong được pháp vô lậu rồi, bạn sẽ đi làm Anh Trư, vậy thì tôi biết giải thích với vợ bạn thế nào đây? Có đúng thế không? Tóm lại là cần phải xem xét đã, để tránh được những sai phạm.
🌟
Khẩu quyết bí mật
Pháp vô lậu là một đối một, là từng người một, “one by one”, còn dạy cho bạn ấy à! Làm sao để co rút lại, việc này cần quán tưởng ra, không hề đơn giản chút nào. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cần xuất hiện trong hư không, khi bạn làm động tác "nhật nguyệt triều thiên", Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát sẽ hiện thân, đây là một khẩu quyết rất quan trọng, rất bí mật, tôi dạy bạn điều này là bạn kiếm được món lời rồi đó.
Một vài người bảo, Lư Sư Tôn á! Nói cho đến giờ vẫn chẳng có gì ấn tượng cả, chẳng có được cái gì cả! Không có cái gì cái gì chứ, chẳng phải là có điều hay ho đó sao! (vỗ tay) Có thứ hay ho thì không thể nói ra! Bạn bảo tôi nói thế nào đây? Bạn dạy tôi xem phải nói thế nào? Phật Đà nói đến đây cũng đều "không thể nói", "không thể nói". Kì thực, "không thể nói" chính là có cái lý bên trong nó. Độ hóa chúng sinh không thể công khai toàn bộ những khẩu quyết rất bí mật này ra được, không thể hoàn toàn không giữ lại chút bí mật nào mà nói ra hết được. Bởi vì nói ra những điều này, người có tâm thuật bất hảo có được sẽ lợi dụng những điều này! Anh ta có thể làm rất nhiều việc, tất cả những thứ được gọi là bí mật của Mật giáo chính là nằm ở đây.
Chà! Lúc này, bạn sẽ hít khí "nhật nguyệt thiên địa", năng lượng của vũ trụ cùng với năng lượng của chúng sinh trên thế giới, toàn bộ đều tập trung trên thân bạn, bạn có thể hít khí của trời đất, chính là "hấp tinh đại pháp" trong bộ phim "Đông phương bất bại" đó. Võ công của toàn bộ con người trên thế giới đều ở trên người bạn. (vỗ tay)
🌟
Tức thân thành tựu
Sau khi thành tựu tu hành Nhị quán Mật giáo Nội pháp rồi, bạn sẽ biết, hóa ra các thứ của Mật giáo mới là Phật pháp quý giá nhất. (vỗ tay)
Bạn tu hành Mật giáo Nhị quán thành tựu rồi, bạn sẽ biến thành quả bóng không sợ bị đá, đá thế nào bạn cũng vẫn chắc khỏe, đá thế nào bạn cũng vẫn có khí lực. Tính đàn hồi của thân thể bạn rất tinh nhuệ, tràn đầy năng lượng của vũ trụ. Cái này có cảm giác chân thực, học Phật học đến mức này thì thân thể bạn vô cùng sung mãn, suy tưởng của bạn chắc chắn vô cùng sống động, bạn có thể giao tiếp với vũ trụ, toàn bộ những lý luận của Phật giáo đều nằm trong con người bạn, mọi thành tựu, mọi quả vị đều nằm trong con người bạn. Bạn không chỉ đạt được thành tựu tâm, bạn còn đạt được thành tựu thân, bạn có thể tức thân thành Phật. Ánh sáng không đến từ bên ngoài, mà từ bên trong thân thể của chính bạn mà sản sinh và phát ra, đây là Phật pháp vĩ đại nhất. Đây là siêu khoa học, Phật học khoa học. Là Phật pháp vĩ đại nhất, đây là Phật pháp quý giá. Chân Phật Mật Pháp là như vậy! (vỗ tay)
Không phải chỉ ở trên phương diện Phật học lý luận. Trên phương diện Phật học lý luận thì chỉ cần là “professor” [giáo sư] đọc kinh là sẽ hiểu biết, người giảng dạy thì cần hiểu Phật học lý luận, các tiến sĩ Phật học sẽ hiểu. Tuy nhiên, đối với phần thực tu khí, mạch, minh điểm thì chưa chắc các giáo sư tiến sĩ đã hiểu được. Cái này buộc phải đi học, phải đi bái thầy, sư phụ dạy cho bạn đánh kim cang quyền như thế nào, minh điểm đi đến đâu, kim cang quyền làm cái gì, đây chính là phần thực tu chân chính.
Từ Nội pháp tiến nhập vào vô thượng mật, từ vô thượng mật lại đi tiếp vào đại viên mãn, bạn sẽ trực tiếp đến được quả vị Phật. Hy vọng mọi người tham khảo cho kĩ băng ghi hình mà tôi đã giảng về chuyết hỏa định, mọi người trước tiên hãy học bảo bình khí cho tốt, luyện cho khí dư đầy thì mới tu chuyết hỏa. Hãy giảm ham muốn tình dục của bạn thì hồi sau bạn có thể thành tựu. Khi bạn đã hiểu rồi thì tôi sẽ lại dạy cho bạn pháp vô lậu, phương pháp vận chuyển minh điểm như thế nào, thế rồi bạn sẽ thành tựu được nhị quán. Nhị quán thành tựu rồi thì khoảng cách đến việc thành Phật đã không còn xa nữa rồi! (vỗ tay)
Hôm nay thời gian cũng không còn nhiều nữa, tôi nói đến đây thôi, cảm ơn mọi người! Om mani padme hum.
Sư Tôn lại nói thêm một chút về khi quán đảnh thì quán tưởng chuyết hỏa: Trung mạch trong suốt, quán tưởng đan điền có một nửa chữ Ah, kích cỡ bằng hạt gạo. Giống như số ㄎ, một ngọn lửa màu đỏ nhen lên đốt cháy chữ ㄎnày. Vậy đó, cảm ơn mọi người!
18. Phương pháp quy y Liên Sinh Hoạt Phật
Cách 1: Gửi thư trực tiếp tới Tông ủy hội Vào 7 giờ sáng (theo giờ địa phương của bạn), chọn ngày mồng 1 hoặc 15 âm lịch hàng tháng, quay mặt về hướng mặt trời mọc (hướng đông). Chắp tay lại, nghĩ tới Sư Tôn, kính cẩn niệm Tứ quy y chú ba lần: Namo Guru bei. Namo Buddha ye. Namo Dharma ye. Namo Sangha ye. (Nam mô Gu-ru pêi. Nam mô Bút-đa yê. Nam mô Đa-ma yê. Nam mô Sang-ga yê)
Và niệm: “Con xin nương nhờ vào sự dẫn dắt của Liên Sinh Hoạt Phật, xin được quy y Chân Phật Tông.” Sau đó đảnh lễ, lạy 3 lần. Tiếp đó gửi thư theo đường bưu điện tới Tông ủy hội – Chân Phật Tông, nêu rõ mong muốn quy y của bạn để được ban quy y. Ghi rõ: tên, địa chỉ, tuổi và kèm theo một khoản cúng dường tùy hỷ. Sau khi Tông ủy hội nhận được thư này sẽ thực hiện yêu cầu xin quy y của bạn.
Thư gửi về địa chỉ: Grand Master Sheng-yen Lu 17102 NE 40th Ct. Redmond, WA 98052, USA. Điện thoại (Tel): 425 - 885 - 7573. Fax: 425 - 883 - 2173
Sau khi nhận được thư xin quy y, Tông ủy hội sẽ gửi chứng nhận quy y đến cho bạn, kèm theo một tấm ảnh Liên Sinh Hoạt Phật và hướng dẫn cụ thể về cách thức bắt đầu tu Tứ Gia Hành.
🌟
Cách 2: Đến gặp mặt trực tiếp Sư Tôn hoặc Thượng sư. Bạn có thể được ban quy y trực tiếp từ Lư Sư Tôn, hoặc từ một vị thầy Acharya (Thượng sư) của Chân Phật Tông, người có thể thay mặt Sư Tôn ban quán đảnh quy y. Để làm điều này bạn có thể đến các chùa Chân Phật Tông, các phân đường, hội nhóm đồng tu, hoặc tham gia các pháp hội của Chân Phật Tông gần nhất.
🌟
Cách 3: Đăng kí quy y trên Website. Vào trang web Chân Phật Tông Việt Nam (chanphat.org) và đăng kí quy y tại đó theo hướng dẫn.
🌟
Lưu ý sau khi quy y: Những hành giả đã quy y Chân Phật Tông thì sẽ có được sự gia trì của dòng truyền thừa. Bởi vậy tốt nhất không nên quy y ở những tông phái khác thêm nữa. Nếu không dòng truyền thừa sẽ bị “méo mó” và đệ tử sẽ mất đi lực gia trì truyền thừa của Chân Phật Tông.
(Hết)